Truyện Kiều(5)
(Tiếp theo)
5. Kiều mắc lừa Sở Khanh
Ngậm ngùi rủ bước rèm châu,
Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần.
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
1060. Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
Bóng Nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai .
1065. Than ôi ! sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây ?
Giá đành trong nguyệt trên mây,
Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa ?
Tức gan riêng giận trời già,
1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi !
Song thu đã khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.
1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ .
Những là lần lữa nắng mưa,
Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi ?
Đánh liều nhắn một hai lời,
1080. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
Mảnh tiên kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài .
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang.
1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng,
Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi .
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành tích việt có hai chữ đề .
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.
Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào .
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào,
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần.
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.
Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau !
Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:
Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng !
Nàng đà biết đến ta chăng,
Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi !
1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người,
Thế nào xin quyết một bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy phong,
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi .
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.
Dù khi gió kép, mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì !
Nghe lời nàng đã sinh nghi,
Song đà quá đỗi, quản gì được thân.
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu !
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
Đêm thâu khắc lậu canh tàn,
1120. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
Lối mòn cỏ nhợt mù sương,
Lòng quê đi một bước đường, một đau .
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào !
Một mình khôn biết làm sao,
Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng.
Hóa nhi thật có nỡ lòng,
1130. Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau !
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời .
Tú bà tốc thẳng đến nơi,
Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà .
1135. Hung hăng chẳng nói chẳng tra,
Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời .
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau .
Hết lời thú phục, khẩn cầu,
1140. Uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa .
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.
Bây giờ sống chết ở tay,
Thân này đã đến thế này thì thôi !
1145. Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu ?
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa !
Được lời mụ mới tùy cơ,
1150. Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu .
Bày vai có ả Mã Kiều,
Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan .
Mụ càng kể nhặt, kể khoan,
Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha .
1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
Thôi đà mắc lận thì thôi !
Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
1160. Một tay chôn biết mấy cành phù dung !
Đà đào lập sẵn chước dùng,
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay !
Có ba mươi lạng trao tay,
Không dưng chi có chuyện này, trò kia !
1165. Rồi ra trở mặt tức thì,
Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời !
Nàng rằng: Thề thốt nặng lời,
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu !
Còn đương suy trước, nghĩ sau,
1170. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào .
Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
Rằng nghe mới có con nào ở đây .
Phao cho quyến gió rủ mây,
Hãy xem có biết mặt này là aỉ
1175. Nàng rằng: Thôi thế thì thôi !
Rằng không, thì cũng vâng lời là không !
Sở Khanh quắt mắng đùng đùng,
Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay,
Nàng rằng: Trời nhé có hay !
1180. Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai ?
Đem người giẩy xuống giếng khơi,
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay !
Còn tiên tích việt ở tay,
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai ?
1185. Lời ngay, đông mặt trong ngoài,
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương !
Phụ tình án đã rõ ràng,
Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui .
Buồng riêng, riêng những sụt sùi:
1190. Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.
Tiếc thay trong giá trắng ngần,
Đến phong trần, cũng phong trần như ai !
Tẻ vui cũng một kiếp người,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru !
1195. Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi !
Dù sao bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong !
Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
1200. Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều .
Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,
Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!
1205. Mụ rằng: Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây ?
ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy nằm lòng,
1210. Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề .
Chơi cho liễu chán, hoa chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời .
Khi khóe hạnh, khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa .
1215. Điều là nghề nghiệp trong nhà,
Đủ ngần ấy nết, mới là người soi .
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói, đã thẹn thùng,
1220. Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe!
Xót mình cửa các, buồng khuê,
Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn, mày dày,
Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
1225. Thương thay thân phận lạc loài,
Dẫu sao cũng ở tay người biết sao ?
Lầu xanh, mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người .
Biết bao bướm lả, ong lơi,
1230. Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió, cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa .
1235. Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
Mặt người mưa Sở, mây Tần,
1240. Những mình nào biết có xuân là gì!
Đôi phen gió tựa, hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu .
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
1245. Đòi phen nét vẽ, câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa,
Vui là vui gượng kẻo mà,
Ai tri âm đó, mặn mà với ai ?
Thờ ơ gió trúc, mưa mai,
1250. Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân.
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà .
1255. Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260. Xa xôi ai có thấu tình chăng ai ?
Khi về hỏi liễu Chương đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay .
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa ?
1265. Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài .
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng.
Lần lần thỏ bạc ác vàng,
1270. Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn !
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân !
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi !
Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần.
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
1060. Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
Bóng Nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai .
1065. Than ôi ! sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây ?
Giá đành trong nguyệt trên mây,
Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa ?
Tức gan riêng giận trời già,
1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi !
Song thu đã khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.
1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ .
Những là lần lữa nắng mưa,
Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi ?
Đánh liều nhắn một hai lời,
1080. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
Mảnh tiên kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài .
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang.
1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng,
Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi .
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành tích việt có hai chữ đề .
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.
Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào .
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào,
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần.
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.
Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau !
Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:
Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng !
Nàng đà biết đến ta chăng,
Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi !
1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người,
Thế nào xin quyết một bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy phong,
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi .
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.
Dù khi gió kép, mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì !
Nghe lời nàng đã sinh nghi,
Song đà quá đỗi, quản gì được thân.
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu !
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
Đêm thâu khắc lậu canh tàn,
1120. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
Lối mòn cỏ nhợt mù sương,
Lòng quê đi một bước đường, một đau .
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào !
Một mình khôn biết làm sao,
Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng.
Hóa nhi thật có nỡ lòng,
1130. Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau !
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời .
Tú bà tốc thẳng đến nơi,
Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà .
1135. Hung hăng chẳng nói chẳng tra,
Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời .
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau .
Hết lời thú phục, khẩn cầu,
1140. Uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa .
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.
Bây giờ sống chết ở tay,
Thân này đã đến thế này thì thôi !
1145. Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu ?
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa !
Được lời mụ mới tùy cơ,
1150. Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu .
Bày vai có ả Mã Kiều,
Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan .
Mụ càng kể nhặt, kể khoan,
Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha .
1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
Thôi đà mắc lận thì thôi !
Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
1160. Một tay chôn biết mấy cành phù dung !
Đà đào lập sẵn chước dùng,
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay !
Có ba mươi lạng trao tay,
Không dưng chi có chuyện này, trò kia !
1165. Rồi ra trở mặt tức thì,
Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời !
Nàng rằng: Thề thốt nặng lời,
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu !
Còn đương suy trước, nghĩ sau,
1170. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào .
Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
Rằng nghe mới có con nào ở đây .
Phao cho quyến gió rủ mây,
Hãy xem có biết mặt này là aỉ
1175. Nàng rằng: Thôi thế thì thôi !
Rằng không, thì cũng vâng lời là không !
Sở Khanh quắt mắng đùng đùng,
Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay,
Nàng rằng: Trời nhé có hay !
1180. Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai ?
Đem người giẩy xuống giếng khơi,
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay !
Còn tiên tích việt ở tay,
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai ?
1185. Lời ngay, đông mặt trong ngoài,
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương !
Phụ tình án đã rõ ràng,
Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui .
Buồng riêng, riêng những sụt sùi:
1190. Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.
Tiếc thay trong giá trắng ngần,
Đến phong trần, cũng phong trần như ai !
Tẻ vui cũng một kiếp người,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru !
1195. Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi !
Dù sao bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong !
Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
1200. Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều .
Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,
Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!
1205. Mụ rằng: Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây ?
ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy nằm lòng,
1210. Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề .
Chơi cho liễu chán, hoa chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời .
Khi khóe hạnh, khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa .
1215. Điều là nghề nghiệp trong nhà,
Đủ ngần ấy nết, mới là người soi .
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói, đã thẹn thùng,
1220. Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe!
Xót mình cửa các, buồng khuê,
Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn, mày dày,
Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
1225. Thương thay thân phận lạc loài,
Dẫu sao cũng ở tay người biết sao ?
Lầu xanh, mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người .
Biết bao bướm lả, ong lơi,
1230. Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió, cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa .
1235. Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
Mặt người mưa Sở, mây Tần,
1240. Những mình nào biết có xuân là gì!
Đôi phen gió tựa, hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu .
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
1245. Đòi phen nét vẽ, câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa,
Vui là vui gượng kẻo mà,
Ai tri âm đó, mặn mà với ai ?
Thờ ơ gió trúc, mưa mai,
1250. Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân.
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà .
1255. Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260. Xa xôi ai có thấu tình chăng ai ?
Khi về hỏi liễu Chương đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay .
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa ?
1265. Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài .
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng.
Lần lần thỏ bạc ác vàng,
1270. Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn !
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân !
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi !
Chú dẫn
1057. Rèm châu: do
chữ Châu liêm, rèm kết
bằng ngọc châu.
1061. Mạch: Dòng
dõi.
1063. Bóng nga: Bóng
người đẹp, chỉ Kiều.
1064. Đeo đai: Vương
vấn ra vẻ quyến luyến.
1067. Trong nguyện
trên mây: ý nói có một phẩm giá khác đời, như Hằng nga trong cung nguyệt
hay tiên nữ trên cung mây.
1070. Chữ lòng ở đầu
câu là Sở Khanh tự nói lòng mình còn chữ lòng ở cuối
câu là Sở Khanh hỏi lòng Kiều, hai chữ chỉ riêng hai người.
1073. Song thu: Cửa
sổ mùa thu (nói thời tiết khi ấy).
1080. Tế độ: Cứu
vớt.
Trầm luân: Chìm đắm, đắm đuổi. ý Kiều muốn nhờ Sở Khanh cứu mình thoát nạn
thanh lâu như Phật cứu vớt chúng sinh khỏi bể trầm luân.
1081. Mảnh tiên: Mảnh
giấy hoa tiên, tức tờ thư.
1082. Nỗi nhà báo đáp: Nông
nỗi phải báo đáp ơn nhà, bán mình chuộc cha.
1084. Tiện hồng: Thuận
tiện cánh chim hồng, tức là nhân có người mà gửi thư. Chữ hồng đây dùng như chữ nhạn, chỉ tin tức thư từ.
1086. Tiên mai: Do
chữ mai tiên, tờ
tiên có vẽ cành hoa mai.
1090. Tuất thì: Giờ
tuất, tức tám, chín giờ tối hiện nay. Hai chữ tích việt của Sở Khanh, đem tản
ra theo lối tản tự, thì thành những chữ trấp
nhất naật tuất lẩu, nghĩa là ngày hai mươi mốt, giờ tuất, chạy
trốn. Đó là Sở Khanh bí mật hẹn ngày giờ đi trốn mà Kiều đã lấy ý tứ suy đoán
ra.
1091. Thoi thót: Chim
từng con lần lượt bay về, con này rồi đến con khác.
1092. Ngậm trăng nửa
vành: ý nói buổi tối, vầng trăng chiếu vào hoa trà mi ngậm lấy nửa
vành trăng.
1096. ÂÂAn cần: ở đây
có nghĩa là khẩn khoản.
1097. Bèo bọt: Như
bèo hay bọt trôi nổi trên mặt nước, ngụ lý lưu lạc lẻ loi.
1098. Yến anh: Đây
chỉ gái nhà chứa. ý Kiều nói: nàng như con chim lạc đàn, lại mang lấy cái nợ
làm gái nhà chứa.
1099. Cốt nhục tử sinh: Do
chữ sinh tử nhục cốt. Tả chuyện: Sở vị
sinh tử cốt đã (thế gọi là làm sống lại người chết, làm mọc thịt nắn xương
khô - làm cho người đã chết sống lại, xương đã khô mọc thịt ra). Do đó, người
ta thường chỉ sự làm ơn rất sâu sắc, to lớn.
1100. Kết cỏ ngậm vành: Tả chuyện: Nguỵ Thù nước Tấn, có tột
người thiếp yêu, khi sắp chết còn dặn con là Nguỵ Khoả phải đem cả người thiếp
chôn theo. Nguỵ Thù chết, Nguỵ Khoả cho người thiếp về không đem chôn theo. Sau
Nguỵ Khoả làm tướng đi đánh giặc nước Tần, gặp tướng Tần là Đỗ Hồi, khoẻ mạnh
có tiếng, đang lúc đánh nhau, tự nhiên Đỗ Hồi vấp phải đám cỏ mà ngã, bị Nguỵ
Khoả bắt được. Đêm về, Nguỵ Khoả mộng thấy một ông già đến nói rằng: "Tôi
là cha người thiếp, cảm ơn ông không chôn con gái tôi, nên tôi kết cỏ quấn chân
Đỗ Hồi cho nó ngã vấp để báo ơn".
Tục Tề hài ký: Dương
Biểu đến chơi núi Hoa Âm cứu sống được một con chim. Đêm ấy có một đồng tử mặc
áo vàng đến tặng bốn chiếc vòng và nói rằng: "Ta là sứ giả của Tây Vương
mẫu may được chàng cứu mạng, xin cảm tạ đại ân". Do đó, người ta thường
nói "kết cỏ ngậm vành" để chỉ sự đền ơn trả nghĩa.
1107. Truy phong: Đuổi
theo gió, nói con ngựa đi rất nhanh.
1108. Dưới trướng: Do
chữ trướng hạ,
nguyên chỉ quân sĩ thuộc quyền chỉ huy của một vị soái. Đây dùng để chỉ kẻ thủ
hạ của Sở Khanh.
Kiện nhi: Người trẻ tuổi mà có sức khỏe. Sở Khanh khoe nhà y có ngựa tốt
và thủ hạ khỏe mạnh, là có ý bảo Kiều nếu chạy trốn thì sẽ sẵn phương tiện và
người hộ vệ chắc chắn không phải lo ngại gì.
1110. Ba mươi sáu
chước: "Tam thập lục" là một danh từ chỉ chung tất cả các
chước. Câu này Sở Khanh bảo Kiều chỉ có một kế hay nhất là chạy trốn.
1111. Gió kép mưa đơn: ý nói
dù có những trở ngại bất trắc...
1114. Quá đỗi: Quá
mức, quá đà, ý nói việc đã trót dở dang rồi.
1119. Lậu: Đồng
hồ nhỏ giọt. Thời xưa thường dùng "đồng hồ nước" để tính thời khắc.
Đó là một cái đồng hồ bằng đồng, dưới có đục lỗ nhỏ, trong chứa nước, giữa đựng
một cái tên có khắc độ; nước trong hồ do lỗ nhỏ giọt ra, thì những độ số ở cái
tên cũng dần dần lộ ra, xem đó, biết được thời khắc của ngày đêm. Danh từ đồng
hồ ngày nay còn quen gọi là gốc ở đó.
1122. Lòng quê: Lòng
nhớ quê hương.
1124. Dậy dàng: Xôn
xao ồn ào nổi lên.
1125. Gan vàng: Có nghĩa
như "lòng vàng". Kiều đoán có người đuổi theo phía sau nên hồi hộp sợ
hãi...
1128. Dặm rừng: Đường
rừng, lối đi trong rừng.
1130. Lắm nau: Lắm
nao, có nghĩa là đến như thế sao!
1132. Vuốt: Móng
sắc của loài thú. ý nói không thoát lối nào được.
1139. Thú tội, chịu
tội.
Khẩn cầu: Khẩn
khoản, cầu xin.
1142. Nước non ý nói
cách trở nước non, tức là nơi ở xa xôi.
1150. Bảo lĩnh: Người
đứng ra đảm bảo, chịu trách nhiệm thay.
Cung chiêu: Cung
khai, nhận tội Tú bà muốn bắt buộc Kiều giữ lời hứa, nên bắt làm tờ cung chiêu
nhận tội, và bắt người đứng bảo lĩnh về lời cam kết của nàng.
1151. Bày vai: Cùng
hàng cùng lứa.
1152. Chịu đoan: Chịu
nhận trách nhiệm về Kiều.
1160. Phù dung: Hoa
phù dung, ví với người đẹp.
1161. Đà đao: Khi
đánh giặc, giả thua chạy để người ta đuổi theo, rồi thình lình quăng dao lại
chém, gọi là "đà dao". "Đà đao" đây là một chước lửa.
1162. Mộ cốt một đồng: Nói
Tú bà với Sở Khanh thông đồng hiệp mưu với nhau để đánh lừa Kiều.
1146. Không dưng: Nếu
không thì tự nhiên làm chi có...
1166. Sân si: Phân
bua, cãi cọ. Mã Kiều khuyên Kiều nên nén nỗi tức giận, chớ nên đôi có với Sở
Khanh mà thiệt mình.
1173. Quyến gió rủ mây: Quyến
rũ mây gió đi theo. ý nói quyến rũ Kiều.
1178. Thị hùng: Cậy
sức mạnh mà ra oai đánh đập người.
1189. Anh yến: Chỉ
chung những người con gái.
1181. Giếng khơi: Giếng
sâu.
1182. Ăn lời: Nuốt
lời, tức không giữ lời.
1184. Mặt ấy, mặt này: Mấy
tiếng này, Kiều xỉa xói vào mặt Sở Khanh mà nói, đối đáp lại tiếng "mặt
mày" của Sở Khanh ở trên.
1186. Vô lương: Cũng
như bất lương, không lương thiện, không có lương tâm.
1191. Trong giá trắng
ngần: Do câu tục ngữ: Trong
như giá, trắng như ngần, trong như băng trắng như bạc (ngần
là do chữ ngân).
1028. Khép mở, riêng
chung: Chỉ giọng nói tỉ tê, nửa khép nửa mở, mối tình nỉ non, như
riêng như chung, tức những mánh khoé quyến rũ.
1210. Vành ngoài bảy
chữ: Bảy cách đối với khách ở bề ngoài để cho khách say mê.
Vành trong tám nghề: Tám
cách đối đãi trong khi ăn nằm với khách, đối với mỗi hạng người, dùng một lối
riêng để làm vừa lòng họ.
1213. Khoé hanh: Khoé
mắt; mắt sắc như lá hạnh.
Khi khoé hạnh, khi nét
ngài: ý nói
khi mắt liếc, khi mày đưa.
1216. Người soi: Người
sành sỏi, lịch lãm, biết ngón chơi.
1218. Nét nguyệt: Nét
lông mày hình vành trăng.
Vẻ hồng: Vẻ mặt
hồng.
1220. Khắt khe: ở đây
như nói éo le, quái ác.
1221. Các khuê: Do
chữ khuê các.
1227. Trướng đào: Màn
màu đỏ, phụ nữ thường dùng.
1231. Lá gió cành chim: Lá
đưa gió, cành đón chim, chỉ sự đưa đón khách chơi.
1232. Tổng Ngọc: Người
nước Sở, đời chiến quốc, đẹp trai, có những bài Cao
đường phú, Thần nữ phú, nói về chuyện mây mưa của
thần núi Vu Sơn...
Tràng Khanh:
(Chính là chữ Trưởng nhưng thường đọc là Trường hay Tràng): Tên tự của Tư Mã Tương
Như, người Hán, yêu sắc đẹp của Trác Văn Quân, gảy đàn cầm gợi tình, làm cho
nàng đang đêm bỏ nhà chốn theo mình.
Tống Ngọc và Tràng Khanh đều giỏi từ phú, là hai người tài tử,
do đó, câu này ngụ ý khách đến chơi toàn những hạng phong lưu quý phái.
1239. Mưa Sở mây Tần: Chỉ
sự ái ân trai gái.
1242. Gió tựa, hoa kề: ý nói
những cảnh vui thú ở chốn thanh lâu.
1242. Tuyết ngậm: Bóng
trăng tỏ soi khắp bốn bề. Hai câu 1241-1242 tả bốn cảnh: "gió, hoa, tuyết,
trăng" (phong, hoa, tuyết nguyệt).
1246. Trong nguyệt: Trong
bóng trăng.
Dưới hoa: Dưới
dàn hoa. Hai câu 1245-1246 tả bốn thú chơi: gẩy đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ
tranh, (cầm, kỳ, thi, hoa).
1249. Gió trúc mưa mai: Mưa gió chỉ sự ái ân (như nghĩa
mưa gió dập vùi) trúc mai chỉ sự
bạn. Đây tiếp ý trên: Kiều thờ ơ với tất cả những chuyện mưa gió, trúc mai...
1250. Giùi mài: Như
nói mòn mỏi, thui thủi. Cũng có ý như là bị dập vùi.
1253. Bóng dâu: Bóng
mặt trời xế trên ngọn dâu. Sách Hoài nam nữ nói:
Mặt trời xế về phía phương Tây, gác bóng trên ngọn cây. Người sau mượn chữ bóng dâu để ví tuổi già.
1255. Dặm nghìn: Tức
nghìn dặm.
1257. Sân hoè: Sân
có trồng cây hoè. Vương Hựu đời Tống tự tay trồng ba cây hoè ở sân nhà và nói:
"Con cháu ta sau này thế nào cũng làm đến chức tam công" (Thời xưa, ở
phía trước sân chầu nhà vua, chỗ ngồi của tam công, có trồng ba cây hoè, nên
Vương Đán làm đến tể tướng. Nhân đó, người ta thường nói sân hoè để chỉ những nhà có con
cái hiển đạt).
Đôi chút thơ ngây: Chỉ
Thuý Vân và Vương Quan.
1258. Trân cam: Những
thức ăn quý báu, ngon ngọt. Hai câu này, ý Kiều nói: Cha mẹ mỗi ngày một già,
mà con cái trong nhà, thì sau khi nàng đi iồi, chỉ còn hai em nhỏ dại, lấy ai
là người phụng dưỡng trân cam thay mình.
1261. Chương Đài: theo
sách Thái bình quảng ký: Hàn hoành,
đời Đường lấy một danh kỳ là Liễu thị ở đường phố Chương Đài, Trường An, sau đi
làm quan xa, để vợ ở lại đó ba năm, không đón đi được,có gửi cho Liễu thị bài
từ rằng: Chương Đài Liễu,
Chương Đài Liễu, đã ưng nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự
cựu thuỳ, đã ưng phan chiết tha nhân thủ! (Cây
liễu Chương Đài, cây liễn Chương Đài, ngày trước xanh xanh, nay còn không? Cho
dù cành dài vẫn buông rủ như cũ, song có lẽ đã vin vào tay người khác rồi!).
Đây ý nói: Khi Kim Trọng đi Liêu Dương hộ tang chú trở về, sẽ hỏi người tình
nhân cũ (là Thuý Kiều).
1262. Cành xuân: Cành
xanh đẹp..
1263. Tình sâu: chỉ
tình chị em, Nghĩa dày: Chỉ
nghĩa vợ chồng. ý Kiều mong Thuý Vân lấy tình chị em thay mình, trả nghĩa cho
Kim Trọng.
1264. Hoa kia, cành
này: "Hoa kia" chỉ Thuý Vân, "cành này" chỉ Kim
Trọng.
1266. Hương quan: Quê
hương
Giấc hương quan: Giấc
mộng về quê hương.
1267. Song ca: cũng
như song the. Xem
chú thích 240.
1268. Hoàng hôn: Về
chiều tối, khi mặt trời sắp lặn, có ánh vàng vàng, gọi là hoàng hôn.
1269. Thỏ bạc, ác vàng: Như
nói "thỏ lặn, ác tà" tức ngày và đêm lần lượt qua đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét