CHUYỆN LY KỲ VỀ MỘT BÀI
THƠ
Trần Thu Hằng (*)
Chàng
là một sinh viên Việt Nam tài hoa với rất nhiều tài lẻ, du học tại Rumani những
năm 60 cuả thế kỷ XX. Nàng là sinh viên người bản xứ, xinh đẹp, tóc vàng, mắt
biếc. Như duyên trời định, họ bất ngờ gặp và quen nhau trong một kỳ nghỉ hè bên
bờ Biển Đen. Và họ yêu nhau. Tình yêu nồng nàn đắm say của tuổi trẻ dạt dào như
sóng biển. Thế nhưng, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ quá khắc nghiệt, chàng
bị “tổ chức” bắt buộc phải chia tay nàng mà không được tiết lộ với người yêu
nguyên do… Bỗng dưng chàng biến mất, cô gái đã phát bệnh tâm thần và lang thang
đi tìm người yêu ở tất cả những nơi trước đây 2 người đã từng hò hẹn, từng chỉ
non thề biển… Chàng trai đau khổ đến tột cùng khi phải câm lặng chứng kiến nỗi
đớn đau vì bị phụ tình của cô gái trong trái tim mình, chàng đã bật lên những
lời thơ, mà lúc ấy chàng không hề nghĩ rằng nó đã lập tức trở thành những áng
thơ tình bất hủ và sau này còn được bình chọn là một trong những bài thơ tình
hay nhất thế kỷ XX…
*Rụt rè… vụ kiện đòi nhận
bản quyền của “thi phẩm bất hủ”
Hơn 30 năm qua, các
thế hệ sinh viên VN, đặc biệt là SV miền Bắc và những người yêu thơ đã cực kỳ
yêu thích bài thơ “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban- căng”, một bài thơ tình với
những lời thơ nồng nàn, da diết: “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban-căng/ Tìm không thấy
chỉ thấy trời im lặng/ Một mình em trong màn đêm thanh vắng/ Tim bồi hồi chân
bước vội dưới trăng”. Chúng tôi đã thuộc, đã chép cho nhau, truyền
tay nhau những câu thơ tình bất hủ, mặc dù không biết tác giả là ai, nhưng ai
cũng nghĩ rằng đó là câu chuyện tình của những chàng trai cô gái châu Âu xa
xôi. Cho đến năm 1990, khi NXB Văn hoá cho ấn hành cuốn sách Almanach
Người mẹ và phái đẹp, trong mục “Những bài thơ tình hay của Việt
Nam và thế giới” đã tuyển chọn bài thơ này và ghi rất rõ tác giả là Onga Becgon
(một nữ thi sỹ nổi tiếng của nước Nga) thì chúng tôi càng hồn nhiên tin rằng đó
là một tác phẩm xuất sắc của thi ca châu Âu, mặc dù NXB không ghi rõ ai là dịch
giả.
Thật bất ngờ, cuối
năm 2004, trong một lần gặp gỡ bạn bè thân thiết ở TP Hồ Chí Minh ra công tác
Hà Nội, vô tình tôi được tiếp xúc với kỹ sư hóa học Khổng Văn Đương. Thấy chúng
tôi nói chuyện văn chương, Khổng tiên sinh rụt rè thổ lộ rằng thời trẻ ông cũng
từng làm thơ, ông có bài thơ “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban-căng”
được in trong cuốn Almanach, nhưng tiếc rằng NXB lại nhầm là của Onga Becgon.
Chúng tôi vô cùng sửng sốt. Nhưng sau khi nghe ông kể lại toàn bộ câu chuyện
tình của ông khi còn là chàng SV Việt Nam trên đất Rumani với cô gái người bản
xứ tóc vàng, bi kịch bị ép buộc phải từ bỏ tình yêu của mình và bức thư oán
trách của cô gái đã là khởi nguồn cho bài thơ ra đời, thì chúng tôi đã thực sự
bàng hoàng kinh ngạc. Và chúng tôi càng kính trọng tác giả của bài thơ hơn khi
biết rằng suốt mấy chục năm qua, ông đã giữ im lặng hoàn toàn, cho dù hàng
triệu người yêu thơ cũng như rất nhiều nhà xuất bản nghiễm nhiên coi “đứa con
tinh thần” của ông là của người khác. Thấy chúng tôi chân thành khuyên ông nên
làm đơn gửi kèm các chứng cứ đến Trung tâm quyền tác giả văn học (thuộc Hội Nhà
văn VN) yêu cầu xác minh, chứng nhận bản quyền, Khổng Văn Đương rụt rè thổ lộ:
ngay sau khi cuốn Anmanach do NXB Văn hoá xuất bản, ông đã viết một bức thư
định gửi cho NXB yêu cầu đính chính, nhưng đắn đo mãi đến nay vẫn chưa gửi.
*Chuyện tình không biên giới của chàng
SV Việt
Khổng Văn Đương sinh
năm 1945, tuổi ất Dậu, quê ở Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Ông không chỉ học rất giỏi
mà còn làm thơ hay. Đến nay ông vẫn còn lưu giữ nhiều bài thơ trong số hơn 100
bài do ông sáng tác, từ sáng tác "đầu tay" khi còn là HS phổ thông
cho đến khi ông phải "ngửa mặt lên trời than rằng "từ nay ta
không làm thơ nữa" và bẻ gãy cây bút vào năm 1969 bởi nỗi lòng đau khổ vì
yêu"- theo như ông tâm sự. Năm 1965 ông được Bộ Giáo dục chọn
đi học Đại học Hoá học tại trường Đại học Bách khoa Georges Dej Bucarest
Rumani. Số phận run rủi hay duyên kỳ ngộ khiến mùa hè năm 1966 khi đi nghỉ mát
tại Biển Đen, Khổng Văn Đương đã gặp Valentina một cô gái Rumani tóc vàng hạt
dẻ, mắt xanh, cô 17 tuổi học sinh lớp 12.
- Một năm sau, vào
dịp nghỉ hè năm 1967, Valentina lên nhà ông chú ở Bucarest chơi, ngay chỗ tôi
đang học. Nàng gọi điện cho tôi đến chơi. Run bắn lên vì sung sướng, tôi vội
vàng đi gặp nàng. Chúng tôi đã gắn bó với nhau suốt kỳ nghỉ hè. Đó là một thời
gian tuyệt đẹp - Khổng tiên sinh bồi hồi nhớ lại. Tình yêu của hai chúng tôi
nảy nở tốt đẹp, chúng tôi yêu bằng cả trái tim chân thành và trong sáng. Tôi đã
cùng người bạn học thân thiết là anh Doanh về thăm nàng tại quê vào mùa đông
năm 1967. Hôm đó bão tuyết mịt mùng, khi thấy tôi, nàng mừng đến nỗi nhảy chồm
lên ôm lấy tôi, rồi nàng giới thiệu tôi với bố mẹ. Sau đó mỗi lần tôi đến chơi,
mẹ nàng lại cho lúc giỏ táo, lúc trứng gà, lúc rượu trái cây. Nhưng tiếc rằng
thời điểm đó chiến tranh chống Mỹ của nhân dân ta đang vào giai đoạn khốc liệt,
nên chuyện yêu đương của bất cứ một SV Việt Nam nào với người bản xứ đều không
được Ban chấp hành Đoàn và tổ chức SV tại Rumani chấp nhận. Tôi bị tổ chức phát
hiện, bắt làm kiểm điểm và yêu cầu phải chấm dứt quan hệ. Thấy rõ nguy cơ nếu
tiếp tục duy trì tình yêu thì sẽ bị trục xuất về nước, lúc đó thì gia đình, họ
hàng dòng tộc chắc không ai thèm nhìn mặt tôi nữa, vả lại thâm tâm tôi cũng
thấy phần nào có lỗi với các chiến sỹ ta đang chiến đấu ở chiến trường khốc
liệt, do đó trong một lần đi chơi với Valentina, tôi đã đề nghị và quyết định
hai chúng tôi phải cắt đứt quan hệ mà không nói lý do thực. Tôi hoàn toàn không
ngờ việc đó đã gây ra một hậu quả rất đau buồn đối với nàng. Sau đó khoảng nửa
tháng, tôi nhận được một lá thư của Valentina với lời lẽ hết sức bi thiết
và oán hận. Xúc động trước tình cảm chân thành, tha thiết này, tôi đã viết bài
thơ "Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng" chỉ trong một
buổi chiều. Bài thơ đã phỏng lại gần như toàn bộ nỗi niềm ai oán, giận hờn của
Valentina thể hiện trong thư nàng và tâm hồn tôi lúc đó cũng vô cùng trơ trọi,
trống vắng. Một điều hết sức đau khổ nữa là sau cú sốc đó, đang là SV trường
Đại học Tổng hợp Bucarets, Valentina bị ngẩn ngơ đến nỗi phải nghỉ học mất một
năm. Còn tôi bị tổ chức tịch thu tập thơ (trong đó có khoảng 50 bài tôi viết
cho nàng), cả thư từ, ảnh chụp với nàng. Vì vậy tôi đã bẻ bút, thề không làm
thơ nữa… Và cho đến nay, 40 năm trôi qua, tôi quả thực không hề làm một câu thơ
nào nữa, nhưng tôi có thể sẽ công bố một số bài thơ sáng tác lúc còn… chưa bẻ
bút…
*Kết thúc có hậu chính từ tình yêu đẹp
trong cuộc sống
- Vậy thời gian sau đó ông có thông
tin gì về nàng không?
- Sau khi về
nước công tác, tôi vẫn canh cánh trong lòng nỗi niềm và lo lắng cho nàng. Nhưng
thật may mắn, năm 1979, có dịp đi công tác tại Tiệp Khắc, tôi đã hồi hộp tìm
kiếm cơ may gặp lại nàng. Đến Tiệp Khắc, tôi liền điện thoại tìm nàng. Mấy hôm
sau nàng đã cùng chồng và một đứa con có mặt tại Tiệp Khắc thăm tôi. Lúc ấy
nàng đang làm việc tại Hội hữu nghị Rumani-Đức. Tôi thật vui mừng khôn xiết vì
nàng khoẻ mạnh, vẫn xinh đẹp và đã có hạnh phúc gia đình, không như tôi vẫn
canh cánh lo cho nàng…
Câu chuyện tình của
Khổng Văn Đương quả có một kết thúc có hậu, và câu chuyện về bài thơ bị thất
truyền của ông cũng đã kết thúc có hậu. Đó là sau khi nghe theo lời khuyên của
chúng tôi, ông gửi hồ sơ đến Trung tâm Bản quyền của Hội Nhà văn VN, Trung tâm
đã xác minh, và bài thơ “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban-Căng” đã
được trả lại tên cho khổ chủ, Khổng Văn Đương được cấp giấy chứng nhận bản
quyền tác giả.
Nhưng còn một bất
ngờ nữa mà chàng thi sỹ từng “bẻ bút rồi ngửa mặt lên trời thề không làm thơ
nữa” này không hề ngờ tới, đó là khi câu chuyện về tác giả đi tìm lại bản quyền
thơ sau gần 40 năm của ông được chúng tôi đăng tải trên một tờ báo, lập tức có
hàng nghìn bạn đọc ở khắp nơi trong nước và nước ngoài đã gửi thư, điện thoại
liên hệ với ông và với toà soạn. Nhiều người bạn cùng học biết rõ về ông, về
hoàn cảnh và xuất xứ bài thơ thì vui mừng vì tìm lại được bạn cũ sau mấy chục
năm xa cách, còn những người khác là SV cùng thế hệ với ông tại Rumani, thuộc
bài thơ, yêu quý bài thơ nhưng không hề biết mặt tác giả, hoặc quên mất tên tác
giả, dù họ đều biết xuất xứ bài thơ là của một chàng SV Việt sáng tác tại
Rumani. Khổng tiên sinh vui vẻ khoe:
- Ông Lâm Quế-
nguyên là Bí thư thứ 2 Đại sứ quán VN tại Rumani phụ trách lưu học sinh thời
ấy, cũng vừa đến thăm và an ủi tôi "Khổng Văn Đương nên coi chuyện cũ là
một kỷ niệm...".
- Thế là nhà hóa học Khổng Văn Đương
bỗng nổi tiếng như cồn với tư cách một nhà thơ có tác phẩm bất hủ của thế kỷ?
Cuộc đời quả không
định trước. Tôi bỗng nhiên gặp các bạn, khiến "máu" văn chương nổi
lên, thế là đem câu chuyện gần 40 năm không ai biết ra kể. Thực ra cũng đã có
lúc tôi định gửi thư cho NXB Văn hoá sau khi họ in Amanách, nhưng tôi lại sợ
không ai tin mình chứ. Khi các bạn khuyên tôi nên gửi đơn đến Trung tâm bản
quyền, tôi cũng làm theo với suy nghĩ không nhằm đòi hỏi một quyền lợi gì về
vật chất mà chỉ mong bất kể ai cũng có thể sao chép vào những mục đích tuyên
truyền văn hoá lành mạnh, tôi chỉ muốn bài thơ thêm chút thi vị và những bạn
yêu thơ có quyền biết về nguồn gốc ra đời của tác phẩm…
Em đi tìm anh
trên bán đảo Ban-căng
Khổng Văn Đương
Em đi tìm anh trên bán đảo
Ban-căng
Tìm không thấy chỉ thấy
trời im lặng
Một mình em trong màn đêm
thanh vắng
Tim bồi hồi chân bước vội
dưới trăng
Em trèo lên đỉnh núi cao
Các-pát
Nhìn theo anh mất hút biết
về đâu
Chân ai đi xa lắc tím trời
Âu
Dòng nước mắt bỗng trào ra
chua chát!
Em lại đến Biển Đen xưa
dào dạt
Sóng xô bờ liên tiếp gọi
triền miên
Buồn! Chao ôi, gió làm em
phiêu bạt
Thân cô đơn kinh khiếp cả
trăng hiền!
Ôi dòng xanh rầm rì sông
Đa- nuýp
Mây trời in lồng lộng giữa
dòng sông
Nên ngàn năm êm đềm trôi
một nhịp
Chỉ mình em nhức nhối vết
thương lòng!
Hỡi trái đất rộng làm chi
bao la
Cho loài người chia biên
giới thế gian
Cho sa mạc nổi bùng cơn
bão cát
Cho tình anh chưa bén đã
lụi tàn?
Em xin hỏi Trời cao và Đức
Phật
Cõi Niết Bàn có mãi mãi
mùa xuân
Đâu trời Tây, đâu xa gần
cực lạc
Mà trần gian đầy bể khổ
trầm luân?
Con lạy Chúa Jêsu ban phép
lạ
Cho nước Người hết ly
biệt, chia phôi
Hai chúng con quỳ trước
Người đa tạ
Xin hoà tan làm một, ngàn
đời!
Em cầu nguyện. Còn anh anh
chẳng biết
Trái tim anh sao giá lạnh
thờ ơ?
Và hôm nay dù tình anh đã
hết
Em vẫn mong, vẫn hy vọng,
vẫn chờ...
Vẫn trèo lên đỉnh cao
Các-pat
Vẫn theo dòng Đa-nuýp
những đêm trăng
Em lại đến Biển Đen xưa
dào dạt
Đi tìm anh trên bán đảo
Ban-căng!
Bucarest, 19-3-1969
* Tựa của tác giả Trần Thu Hằng là “Chuyện tình không biên giới và bài thơ tình hay nhất thế kỷ XX”
*Theo
tạp chí Đang yêu số 10 – 2010
NHÂN BA MƯƠI THÁNG TƯ, ĐỌC LẠI BÀI THƠ
CỦA BẰNG VIỆT
Ngày ba mươi tháng tư đang đến gần, ở trong nước thì khắp nơi tổ
chức rầm rộ các hoạt động kỷ niệm chiến thắng, ở hải ngoại thì các buổi lễ “quốc
hận” cũng được Việt kiều một số nơi tham gia. Trong một bầu không khí như vậy,
xin đưa lại bài thơ của Băng Việt để quý bạn yêu thơ đọc nhằm lắng lại một nỗi
niềm riêng cho mỗi người.
BCTHVN
RƯỢU CỦA NGUYỄN CAO KỲ
Bằng Việt
Vị thiếu tướng công an cầm chai rượu ra bàn:
“Ông Nguyễn Cao Kỳ mới về gửi tặng”
Mọi người đang vui, gật gù bảo uống
Nhưng một người bảo “Không!”
Vì sao không? Rượu cứ ngon là rượu!
Whisky Mỹ hay Vodka Nga, giờ có mặc cảm gì,
Chiến tranh lạnh qua rồi, ba mươi năm sau chống Mỹ
Đây là chén rượu thăm quê của tướng Nguyễn Cao Kỳ!
Nhưng vẫn có một người không chịu uống!
Vì sao không? Chẳng cố chấp quá ư?
Cậu là lính phòng không, chúng tớ đều cựu chiến binh cả chứ!
Cũng bom đạn, cũng Trường Sơn, cũng vào sinh ra tử,
Sống đến hôm nay, đâu phải để hận thù!
Có phải tự đáy lòng không vượt qua mặc cảm?
Không vượt qua nỗi buồn của cuộc chiến tranh xưa,
Không vượt qua chính mình, không vượt qua quá khứ,
Vết thương cũ còn đau khi gió chuyển sang mùa…
Đám đông ồn ào của chúng tôi cứ uống
Anh bạn chỉ ngồi im, cũng chẳng nói thêm gì,
Và bữa rượu bỗng dưng thành đắng đót
Chẳng phải tại vì ai, kể cả Nguyễn Cao Kỳ!
2007
THƯ
GỬI LẠNG SƠN
Trần Nhương
Vì nhân đạo chúng ta có thể
Để những người thân Trung Quốc đến Hữu
Lũng
Viếng con em họ ngã xuống khi đánh Việt Nam
Giọt máu từ bên kia
Chôn dưới đất Việt khi họ sang xâm lược
Vì hòa hiếu
Cha ông ta ngày xưa
Đã từng cầu siêu cho quân Thanh sau trận
Đống Đa
Cấp lương thảo cho tàn binh về cố quốc
Lẽ thường lòng nhân nên trọng
Nhưng những người đứng đầu Lạng Sơn
Gọi những binh lính ấy là “liệt sĩ”
Mời đoàn đại biểu sang dâng hương
Thì bã đậu đã ngự trong đầu
Hay ăn ca la thầu
Mà xóa tan bộ nhớ?
Vậy những người lính phía cộng hòa
Là con một bọc
Trên khắp vùng miền
Trên Hoàng Sa năm 1974 chống quân xâm
lược
Sao vẫn không gọi họ là liệt sĩ?
Ôi những anh hùng ngã xuống Lộc Bình,
Chi Ma, Đồng Đăng, Cao Lộc..
Vì đất nước Việt Nam
Mà người ta e dè nhắc đến
Những ngày lễ trọng…
Vì sao?
Nay tỉnh Lạng Sơn
Gọi những kẻ xâm lược nước mình là liệt
sĩ
Thì gầm trời có
một... Kỳ... Lừa…
TIN
ĐẶC BIỆT MỚI NHẬN
Một cộng tác
viên của Bình chọn thơ hay Việt Nam
vừa gửi qua email bản tin khẩn sau đây. Xin đăng tải thông tin này và lưu ý quý
bạn yêu thơ, vì đêm quá khuya nên chúng tôi chưa kịp kiểm chứng. Nên quý bạn
xem đây như một tin tham khảo thôi.
BCTHVN
TRĂNG NGHẸN là bài thơ của Hoài Tường Phong vừa đoạt
giải Nhất cuộc thi thơ đồng bằng sông Cửu Long do các Hội Văn học - Nghệ thuật
trong khu vực nầy liên kết tổ chức, tỉnh Cần Thơ đăng cai. Nhưng một sự cố lạ
lùng chưa từng có đã xảy ra: Nhà thơ Phạm Sĩ Sáu, trưởng Ban Giám khảo cho hay,
một số cơ quan "có thẩm quyền" ở thành phố Cần Thơ (thực chất là
không có thẩm quyền) đã yêu cầu Ban Giám khảo chọn lại bài khác để trao giải
Nhất, vì bài nầy u ám quá. "Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng
chớ không thể nào nghẹn được". Ban Giám khảo đã quyết định không chấm lại,
cuối cùng họ quay sang tác giả. Nhà thơ Hoài Tường Phong cho biết, mấy ngày nay
chủ tịch Hội Văn nghệ Cần Thơ yêu cầu ông làm đơn từ chối giải thưởng với lý do
"tôi không có gởi dự thi". Ông khẳng định rằng "tôi đã gởi dự
thi", sau đó vị chủ tịch Hội Văn nghệ lại yêu cầu ông làm đơn xin từ chối
giải thưởng với lý do "Thơ tôi có nhiều câu chữ không phù hợp với tiêu chí
cuộc thi". Ông Phong nói "Đó là việc thẩm định của Ban Giám
khảo".
Xin miễn bình luận về sự kiện nầy. Mời các bạn đọc
bài thơ TRĂNG NGHẸN đã được công bố giải Nhất vừa qua.
TRĂNG NGHẸN
Hoài Tường Phong
Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,
Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.
Vùng tản cư hồi nầy ruộng hoang nhà trống,
Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.
Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,
Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,
Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.
Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn
đó,
Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.
Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá,
Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.
Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.
Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo
hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.
Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.
TIN MỚI NHẬN:
Chiều ngày 3-03-8010 , Ban thường vụ Liên hiệp các Hội Văn học nghệ
thuật thành phố Cần Thơ đã họp và chính thức quyết định loại bỏ giải Nhất của
bài thơ Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong. Rõ ràng đây là một sự lạm quyền hay
lộng quyền thô bạo chưa từng có của một Hội văn nghệ địa phương vì đây là một
giải thơ của khu vực ĐBSCL. Thật không còn gì để nói. Vì không có máy tính và
không biết gởi mail nên anh Hoài Tường Phong nhờ tôi mail cho anh để biết.
Mến chào anh.
Phương Đông
TRANH
LUẬN CHUNG QUANH BÀI THƠ
CỦA
NGUYỄN VIỆT CHIẾN
Tóm
tắt câu chuyện (theo blog quechoa của nhà văn Nguyễn Quang Lập)
Hôm nay, ngày 1-2-2010, nhà thơ Nguyễn
Việt Chiến cho bọ biết: Mặc dù đã nhận được thông báo đến nhận giải B cho bài
thơ “Thời đất nước gian lao” của cuộc thi thơ toàn quốc 2008-2009 do Tạp chí
Văn nghệ Quân đội được tổ chức vào ngày 4-2-2010; mặc dù được biết bài thơ này
đã được in trong tập thơ những bài thơ được giải sẽ phát hành tại lễ trao giải;
nhưng trong những ngày gần đây, do một số ý kiến và thông tin cho rằng bài thơ
“Thời đất nước gian lao” là “có nhiều vấn đề”, nên nhà thơ Nguyễn Việt Chiến
xin tự nguyện không nhận giải thưởng thơ của tạp chí Văn nghệ Quân đội để tránh
có những suy diễn, làm phức tạp thêm vấn đề đang “có vấn đề”. Nhà thơ cho biết,
ngày mai, ngày 2-2-2010 ông sẽ đến Tạp chí Văn nghệ Quân đội để thông báo chính
thức về việc này.
Tin chỉ có
thế, ai thắc mắc gì thì hỏi nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đừng hỏi bọ làm phức tạp
thêm vấn đề đang “có vấn đề”.
Khoảng 10
giờ 30 sáng 2-2-2010, theo đúng lời hẹn với lãnh đạo Ban Biên tập Tạp chí Văn
nghệ Quân đội (VNQĐ), nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã tới trụ sở Tạp chí số 4 Lý
Nam Đế để trao đổi về việc ông tự nguyện không nhận giải B cuộc thi thơ toàn
quốc năm 2008-2009 mà Tạp chí VNQĐ đã công bố danh sách các tác giả đoạt giải
trước đó. Trong không khí ấm áp tình bằng hữu văn chương tại trụ sở của tờ tạp
chí văn nghệ uy tín này, nhà văn Nguyễn Bảo (Tổng biên tập Tạp chí), nhà văn
Ngô Vĩnh Bình (Phó Tổng biên tập), nhà văn Khuất Quang Thụy (nguyên phó Tổng
Biên tập) và nhà thơ Anh Ngọc, đại diện ban chung khảo cuộc thi thơ đã thân mật
tiếp đón nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, nghe ông nói về các lý do khiến ông xin tự
nguyện rút khỏi giải thưởng thơ này.
Sau đó, nhà
thơ Nguyễn Việt Chiến đã viết một bản đề nghị với nội dung sau: “Lời đề nghị- kính gửi Ban Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Ban Chung
khảo cuộc thi thơ VNQĐ 2008-2009. Tôi là nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, hội viên
Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, phóng viên Báo Thanh Niên,
hôm nay ngày 2/2/2010, tôi đã đến trụ sở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, gặp ban
lãnh đạo Tạp chí VNQĐ và Ban chung khảo cuộc thi thơ VNQĐ năm 2008-2009 và tôi
xin tự nguyện rút tên khỏi danh sách giải thưởng cuộc thi vì sau khi giải
thưởng được công bố, tôi thấy có nhiều ý kiến khác nhau. Tôi đã từng được giải
cao của VNQĐ về thơ nên việc có thêm một giải thưởng nữa cũng không quan trọng
lắm. Tôi xin trân trọng cảm ơn Tạp chí VNQĐ và Ban chung khảo cuộc thi. Ngày
2-2-2010. Nguyễn Việt Chiến (đã ký)”,
Khi nhà thơ
Nguyễn Việt Chiến đưa bản viết nói trên cho lãnh đạo Tạp chí Văn nghệ Quân đội,
thấy mấy bạn văn mừng rỡ và tươi cười chia sẻ. Ông Chiến dặn lãnh đạo tạp chí,
nếu có ai “thóc mách” muốn tìm hiểu về việc tại sao ông rút khỏi giải thưởng
này thì bên tạp chí cứ việc đưa bản photocopy “Lời đề nghị” xin rút khỏi giải
thưởng nói trên là xong, đỡ phải giải thích nhiều về những vấn đề đang “có vấn
đề” bởi rất dễ bị suy diễn là “có vấn đề” mà thực ra chẳng “có vấn đề” gì cả!
Chia tay nhau, lãnh đạo tạp chí VNQĐ tặng ông Chiến tập thơ hơn 300 trang
in những bài thơ từ cuộc thi thơ VNQĐ 2008-2009, trong đó, từ trang 28 đến
trang 37 có in lại toàn bộ bài thơ “Thời đất nước gian lao” mà Tạp chí VNQĐ đã
công bố trao giải B mà nhà thơ Nguyễn Việt Chiến xin không nhận giải. Trong lời
nói tạm biệt lúc ra về, ông Chiến chúc “Cuộc thi 2008-2009 của Tạp chí VNQĐ
thành công tốt đẹp”
Thời đất nước gian lao
Nguyễn Việt Chiến
Chúng đã ngủ cả rồi
những con hươu bị bóng đêm săn
đuổi
chúng đang gác cặp sừng lên
vầng trăng cuối tháng
rồi nằm mơ về một cánh rừng
không có thuốc đạn và súng săn
Họ đã ngủ cả rồi
những người lính bị chiến
tranh săn đuổi
họ nằm mơ gặp lại bầy hươu
gác sừng lên người bạn vô danh
trên cánh rừng đã chết
Chỉ còn lại vầng trăng
và giấc ngủ
chỉ còn lại dấu vết cuối cùng
của bầy hươu bị săn đuổi
chỉ còn lại câu thơ thầm lặng
về những người đã ra đi
Chỉ còn lại những gì
không còn lại
bởi người đau đớn nhất
sau chiến tranh
không ai khác ngoài mẹ của
chúng ta
những đứa con không trở về
hoà bình dưới mưa phùn
được đắp bằng cỏ non và nước
mắt
*
Đêm đêm
những người con ngỡ đã đi thật
xa
đang lặng lẽ trở về
họ lẫn vào gió vào sương đêm
không cần an ủi
họ chẳng ồn ào như lời ca sôi
sục ngày ra đi
Họ còn nguyên tuổi trẻ
những người lính chưa tiêu phí
một xu mơ ước
chưa tiêu hoài một đồng thanh
xuân
Họ trở về tìm lại
trang sách học trò đêm đêm còn
thao thức
trên cánh đồng tiếng
Việt ngàn năm
Mẹ lại thấy chúng con về
như cánh cò tuổi thơ lưu lạc
đã bao ngày phải xa rời thôn ổ
yêu thương
chúng con trở về tìm lại
giọt nước mắt xót xa và đắng
cay của mẹ
Một bên là núi sông ngăn
cách
còn bên kia là bóng đêm chiến
tranh
vẫn biết đạn bom không có mắt
vẫn biết hận thù không thể
phân biệt nổi
đâu là hoa sen và đâu là bùn
tối
nhưng các anh vẫn phải ra đi
Các anh phải ra đi
lời ru chùa Tây Phương
những La Hán mặt buồn
người thợ mộc xứ Đoài
lấy thân xác hom hem của mình
làm mẫu vẽ
ba mươi sáu dẻo xường sườn
réo rắt tấu lên bản đàn tam
thập lục
người gẩy đàn thì đau đớn
mà bản nhạc viết cho đàn lại
reo vui
*
Mẹ đã sống dưới mưa phùn ảm
đạm
những ngày dài nghèo đói quắt
quay
Mẹ thiếu sữa sinh đứa con
thiếu tháng
Tổ quốc xanh xaoTổ quốc hao
gầy
Mẹ có mặt trong dòng
người nhẫn nại
lặng lẽ xếp hàng từ mờ sớm tới
đêm hôm
Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo
phiếu
nuôi lớn những người con
rồi gửi tới chiến trường
Mẹ đã khóc lúc rời ga
Hàng Cỏ
những đoàn tầu hun hút tuổi
hai mươi
một thế hệ hồn nhiên không
biết chết
chưa từng yêu khi gục ngã cuối
trời
Mẹ ở lại với sông Hồng
tần tảo
áo phù sa lam lũ tháng ngày
câu quan họ cất trong bồ thóc
cũ
sông Cầu trôi như một tiếng
thở dài…
*
Tàu xuyên đêm
tiếng gió xé bánh xe lăn quần
quật
đêm nay họ trở lại một thời
gian lao
đường vào Nam hun hút những
chuyến tầu
máu rất đỏ tuổi hai mươi nằm
lại
câu hát bảo:
tuổi hai mươi những người đi
trẻ mãi
câu thơ bảo:
đất nước hình cánh võng mẹ ru
ta
Và ở hai đầu đêm võng
mắc dọc rừng già
trăng cũng sốt rét rừng như ta
sốt
trăng mất máu như bạn ta thủa
trước
dọc cánh rừng na-pan
Sông Thạch Hãn
nước mùa này còn ấm
và các anh trong suốt
những người hy sinh thời gian
lao
Mây Quảng Trị
mùa này vẫn một mầu huệ trắng
trên Cổ Thành
như ngày các anh ngã
xuống
những người hy sinh thời gian
lao
Và mưa gió Trường Sơn
mùa này vẫn tắm gội
những người con nằm lại
thời đất nước gian lao
Những cánh rừng cuối thu
ngủ dưới mưa phùn
đất nước tôi những người nằm
trong đất
chất phác như bùn hồn nhiên
như cỏ
buồn đau không còn thở than
Những ngọn sóng đất đai
lưu giữ mọi thăng trầm
người chép sử ngàn năm là bùn
đất
kiên trì và nhẫn nại
máu của người là mực viết thời
gian.
BUỒN… MỘT BÀI THƠ
Nguyễn Văn Thịnh (*)
Đọc bài thơ
Thời đất nước gian lao của tác giả Nguyễn Việt Chiến mà cảm thấy buồn! Càng
buồn hơn khi bài thơ được tặng giải B từ cuộc thi thơ toàn quốc do Tạp chí Văn
nghệ Quân đội tổ chức (2008-2009).
Trong văn
chương nghệ thuật, khen chê là chuyện bình thường. Chưa hẳn khen đã là hay và
không hẳn chê đã là dở.
Bài thơ thể
tự do, giá trị nghệ thuật không có gì đặc biệt ngoài một số hình tượng lạ. Tuy
nhiên hình tượng lạ chưa thể làm nên một bài thơ, huống chi là một bài thơ hay.
Thơ về những
người lính hy sinh cho Tổ quốc mà nghe ngậm ngùi ai oán làm sao! Những con hươu
bị bóng đêm săn đuổi – Chúng đang gác sừng lên vầng trăng cuối tháng – Những
người lính bị chiến tranh săn đuổi – Họ nằm mơ gặp lại bầy hươu – Gác sừng lên
người bạn vô danh – Trên cánh rừng đã chết! Thấp thoáng những bóng ma người
lính như những La Hán mặt buồn người thợ mộc xứ Đoài lấy thân xác hom hem của
mình làm mẫu vẽ ba mươi sáu dẻo xương sườn! Bóng ma những người lính trẻ chưa
tiêu phí một xu ước mơ, chưa tiêu hoài
một đồng thanh xuân, đêm đêm lặng lẽ trở về, lẫn vào gió và sương đêm, không
cần an ủi. Những đứa con mẹ sinh ra trong những ngày dài nghèo đói quắt quay,
mẹ thiếu sữa nuôi con thiếu tháng, lần hồi cơm tem gạo phiếu, nuôi lớn những
đứa con rồi gửi tới chiến trường để bây giờ là những linh hồn trở về tìm lại
giọt nước mắt xót xa và đắng cay của mẹ!
Biết rằng
chuyện thơ mà đem sự lý ra bàn dễ thành vô duyên. Nhưng cái tình gì cũng vậy,
nếu không có lý trí tỉnh thức để có được cái tâm ngay chính sẽ là sai lạc.
Thật ra trên
đời này, những người lương thiện đều không muốn có chiến tranh vì nó gắn liền
với chết chóc, tang thương, khổ đau, tàn bạo. Không ai muốn nhận lấy những tai
ương để được vinh quang hão!
Người đau
đớn nhất sau chiến tranh không ai khác ngoài mẹ của chúng ta! chỉ là nhắc lại
lời của ai xưa: Chiến tranh không có chiến thắng mà chỉ có những nỗi đau tột
cùng của các bà mẹ mất con! Ở góc độ nào, ý đó không sai nhưng chưa hẳn đúng.
Đó là thứ chủ nghĩa nhân đạo mơ hồ đầu môi chót lưỡi, giống như một ông nhà văn
nào đó nói rằng: Trong suốt cuộc chiến tranh, ông ta chỉ bắn có ba phát súng
lục nhưng là bắn… chỉ thiên! Ông ta quên rằng những viên đạn từ tay người lính
đối phương không tính chừa ông! Và người lính vệ quốc nào cũng không nhằm thẳng
quân thù mà bắn thì làm sao có ngày ông nhà văn nhận được sự trọng thị từ phía
bên kia? Ai cũng biết chiến tranh thật tàn nhẫn và man rợ nhưng nó là hiện
tượng loài người không tránh được. Lịch sử thế giới, lịch sử nước ta xảy ra bao
nhiêu cuộc chiến tranh? Mỗi người cần tỉnh táo và sáng suốt nhận rõ căn nguyên
và bản chất của mỗi cuộc chiến tranh! Lưỡi gươm, viên đạn thì mù nhưng kẻ dùng
nó có cái đầu lạnh và con mắt sắc nhắm vào một đích! Có cái đích nghĩa nhân. Có
cái đích vô nhân. Cuộc chiến tranh nào cũng kết thúc không chỉ là cái thiện mỉm
cười mà có khi là cái ác lên ngôi! Có lúc người ta đánh lộn xòng sự thỏa mãn
của kẻ đắc thắng với nỗi đau không cùng của người chiến bại!
Đội quân nào
khi ra trận mà chẳng ồn ào những lời ca sôi sục? Hãy nhìn lại hình ảnh đội quân
viễn chinh Pháp vào mùa thu năm 1946 hùng hổ với những tàu chiến, xe tăng, đại
bác kéo từ phía Nam ra, trong bài ca La Marseillaise phấn chấn tự hào: Allons
enfants de la Patrie – Le jour de gloire est arrivé – Contre nous de la
tyrannie – L’étandard sanglant est levé… (Tổ quốc gọi: Hỡi con của mẹ – Tiến
lên đi vinh quang vẫy gọi – Ta chống lại hung tàn – ngăn dòng máu chảy…) rầm
rập đổ lên bến cảng Hải Phòng, để gần mười năm sau đó kết thúc ra sao ở thung
lũng Điện Biên? Rồi hai mươi năm sau, đội tiền tiêu của nửa triệu quân viễn
chinh Mỹ trống rong cờ mở, giầm nát cảng Đà Nẵng dưới những gót giày đinh, để
cũng một thời gian như thế, lặp lại cuộc tháo chạy khỏi Sài Gòn mùa xuân 1975?!
Trong cuộc
chiến này, nỗi đau của những bà mẹ mất con không thể giống nhau. Một trong
những kiến trúc sư chủ chốt của cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo nhất vừa qua
đã cay đắng thốt lên: Đấy là cuộc rút quân không kèn, không trống, không có
người ra đón, không có tặng hoa, không có anh hùng, không có chiến công của một
đội hùng binh chỉ biết một cặp mỹ từ chiến thắng! Vậy thì làm sao một đội quân
nhỏ bé với những người lính chưa thể phân biệt nổi đâu là hoa sen và đâu là bùn
tối vẫn phải ra đi, mà đã cho đối phương hiểu thêm nghĩa cặp từ chiến bại?! Một
sự mất mát được an ủi. Một sự mất mát bị giày vò.
Sức mạnh của
một đội quân được gieo mầm từ vườn ươm là tấm lòng ngườiø mẹ? Khi tình mẹ yêu
con vượt qua sự ích kỷ tầm thường, lòng mẹ sáng lên định rõ chính, tà, mắt mẹ
nhận rõ kẻ gian, ngay. Có những bà mẹ cắn răng lau nước mắt tiễn con ra trận
trong khi có những bà mẹ phẫn uất tự thiêu đòi trả lại con mình. Mẹ hướng con
hành thiện, gần lành tránh ác, không cần hoa, chỉ mong con làm việc nghĩa, làm
dịu đi nỗi con thất vọng! Đó là điều an ủi tinh thần vừa ngọt ngào vừa đau xót!
Các anh nằm
lại còn nguyên mãi tuổi hai mươi, chẳng biết khổ đau, cũng chẳng màng tới vinh
quang! Chỉ người còn lại ôm giữ mãi trong lòng những gì không còn lại mới là người đau đớn nhất một thời dài hậu chiến!
Biết bao thế
hệ người mẹ Việt Nam gánh chịu nỗi đau như thế. Biết bao thế hệ những người con
trai con gái Việt Nam nghe lời mẹ biết sống tận hiếu, tận trung sẵn sàng hy
sinh cuộc sống của mình.
Mỗi con
người ra đời là một sự ngẫu nhiên. Trong thời thế nào người ta cũng phải thể
hiện được mình nghĩa là phải làm làm tròn trách nhiệm cá nhân với gia đình và
xã hội. Đành rằng chết rồi thì ai cũng như ai nhưng con người ta có thể sống
theo cái triết lý: Lẳng lơ chết cũng ra ma – Chính chuyên chết cũng đưa ra
ngoài đồng được chăng? Sướng khổ là ở đấy và trọng khinh cũng là ở đấy! Kẻ
sướng chưa chắc đã đáng trọng. Người khổ chưa chắc đã đáng khinh. Trong giáo lý
làm người, ông bà ta dạy con cháu phải coi trọng điều liêm sỷ nghĩa là phải giữ
mình ngay chính và phải biết nhục. Nô lệ là nhục! Dốt nát là nhục! Nghèo hèn là
nhục! Bất lương là nhục! Trốn trách nhiệm làm người là nhục!... Những bà mẹ dạy
con rửa nhục. Những người con quyết không chịu nhục. Mẹ và con xứng đáng nhận
sự tôn vinh muôn đời, dù chỉ là sự an ủi tinh thần nhưng đó là nền tảng để giữ
nước trường tồn. Chỉ kẻ hèn mới hoan hỷ trước giây phút yếu lòng của người lính
vệ quốc quân.
Có thật hôm
nay chỉ còn lại vầng trăng và giấc ngủ – chỉ còn lại dấu vết cuối cùng của bầy
hươu bị săn đuổi – chỉ còn lại câu thơ thầm lặng về những người đã ra đi?
Không! Một cuộc sống yên ổn ngời trên nét mặt, ròn trong tiếng cười, bụng bớt
lép, da mặt bớt nhăn, trẻ thơ tròn giấc ngủ trong nôi, người già vững tâm có
con cháu làm chỗ dựa, người bé lớn dễ dàng sự học và dám tính chuyện gần xa, mơ
về một tương lai không vương cái chết… Biết rằng nỗi đau chỉ có thể dần tan
theo mẹ. Biết rằng còn những cảnh khổ do con người gây ra bởi thói ích kỷ bản
năng. Biết rằng còn những cảnh đời trớ trêu bất nhẫn, còn những nỗi bất bình…
Nhưng đó là do những người đang sống gây nên và cũng không ai ngoài họ phải
biết uốn nắn, điều chỉnh, xóa dần đi những điều ngang trái bất công. Sự tôn
vinh bị coi là vô nghĩa khi thành quả được gây dựng từ mồ hôi xương máu của
tiền nhân bị lớp người thừa hưởng phản bội, nghĩa là quyền được sống ấm no, tự
do, dân chủ nhân dân không được hưởng, độc lập chủ quyền của tổ quốc không giữ
được. Nhân dân nguyền rủa, lịch sử lên án và lớp hậu sinh sẽ biết phải làm gì!
Cảm xúc của
nhà thơ tùy thuộc vào tâm trạng trong từng thời điểm. Sự hỷ–nộ–ai–lạc có lúc
thế này, thế khác mà bộc phát ra cái đúng, cái sai. Bạn đọc dễ chia sẻ khi
người thơ không giữ được thăng bằng tình cảm. Đáng buồn là bài thơ lại được
nhận giải cao từ cuộc thi thơ văn do một tờ báo lớn của người lính Cụ Hồ chủ
xướng! Chẳng lẽ những người thẩm định không nhìn ra sự lệch lạc và bi lụy tới
mức bôi nhọ tinh thần vì nước hy sinh của bao nhiêu người mẹ, bao nhiêu đồng
đội trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của chúng ta tới mức bạn bè kính nể,
kẻ thù khâm phục và đang có những việc làm công khai thiết thực ủng hộ nhân dân
ta hàn gắn vết thương chiến tranh hoặc sám hối những tội ác họ đã gây ra? Phải
chăng do thơ văn bế tắc hay chỉ là cái ngón thừa của một bàn tay? Đó là điều
không thể chấp nhận được!
Công tác tư
tưởng trong QĐNDVN từng rất được coi trọng và đã đóng góp không nhỏ vào những
thắng lợi của cuộc kháng chiến thần thánh vừa qua. Đành rằng ở thời điểm nào đó
có phần khe khắt, gò ép, một chiều. Tuy nhiên giải phóng tư tưởng, giải phóng
ngòi bút không có nghĩa là để người viết tự do xuyên tạc bản chất cuộc chiến
tranh chính nghĩa của ta, hạ thấp tinh thần Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của
bao nhiêu thế hệ đồng bào, chiến sỹ, hàm ý coi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại
vừa qua là vô nghĩa! Đáng tiếc là chuyện này không chỉ xảy ra một lần và mức độ
đang ngày một trắng trợn, thâm sâu! Các cơ quan quản lý văn hóa tư tưởng, đặc
biệt trong tổ chức của các lực lượng vũ trang ta không thể buông lỏng mãi.
TPHCM ngày
15 tháng 2 năm 2010
* Nhà
văn Nguyễn Văn Thịnh là bác sĩ y khoa,
Hội viên hội nhà văn TP.HCM, đã xuất bản một số tiểu thuyết, tập truyện
ngắn.
NHÀ NƯỚC CÓ
BỎ RA MỘT TRĂM TỈ ĐỒNG THUÊ THỢ VIẾT,CŨNG KHÔNG VIẾT NỔI ĐƯỢC BÀI THƠ HAY VỀ
CÁCH MẠNG-KHÁNG CHIẾN NHƯ NGUYỄN VIỆT CHIẾN VỚI
“THỜI ĐẤT
NƯỚC GIAN LAO”
Trần Mạnh Hảo
Khuya
01-02-2010, vào blogs quê choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập, thấy mấy dòng
thông báo hơi bị khó hiểu như sau :
“Nhà thơ
Nguyễn Việt Chiến tự nguyện rút lui khỏi Giải thưởng Thơ Văn nghệ Quân đội năm
2008-2009
Hôm nay,
Ngày 1-2-2010, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến,hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội
viên Hội Nhà báo Việt Nam, phóng viên Báo Thanh Niên (cựu tù nhân chống tham
nhũng vụ án PMU18) cho bọ biết: Mặc dù đã nhận được thông báo đến nhận giải B
cho bài thơ “Thời đất nước gian lao” của cuộc thi thơ toàn quốc 2008-2009 do
Tạp chí Văn nghệ Quân đội được tổ chức vào ngày 4-2-2010; mặc dù được biết bài
thơ này đã được in trong tập thơ những bài thơ được giải sẽ phát hành tại lễ
trao giải; nhưng trong những ngày gần đây, do một số ý kiến và thông tin cho
rằng bài thơ “Thời đất nước gian lao” là “có nhiều vấn đề”, nên nhà thơ Nguyễn
Việt Chiến xin tự nguyện không nhận giải thưởng thơ của tạp chí Văn nghệ Quân
đội để tránh có những suy diễn, làm phức tạp thêm vấn đề đang “có vấn đề”. Nhà
thơ cho biết, ngày mai, ngày 2-2-2010 ông sẽ đến Tạp chí Văn nghệ Quân đội để
thông báo chính thức về việc này.”
Maiakovski,
thi hào Nga có lần nói : “ Anh có thể dối em tất cả;nhưng trong thơ anh không
thể dối ”. Người ta có thể viết rất hay về sự dối trá; nhưng sự dối trá không
thể làm nên bài thơ hay. “Thời đất nước gian lao” của Nguyễn Việt Chiến” là một
bài thơ hay, như một âm bản, một phiên bản thật nhất của tâm hồn nhà thơ đang
ngồi trên chiếc chiếu manh hòa bình, tưởng nhớ đến những vạt cỏ phủ lên đồng
đội xưa ngã xuống, những vạt cỏ của kinh cầu hồn (Requiem) thi ca, của nỗi buồn
thánh treo veo nước mắt. Chúng tôi đã rất cảm động khi lần đầu đọc bài thơ này
của Nguyễn Việt Chiến, đến nỗi khóe mắt rơi giọt sương khuya.
Chúng tôi
cũng như Nguyễn Việt Chiến đã từng là người lính trong chiến tranh, đã ra đi từ
ga Hàng Cỏ trên chuyến tàu hỏa hú còi như bị chiến tranh thọc tiết. Con tàu
sồng sộc lao vút về phương Nam, để lại sau lưng mẹ già khóc ngất, để lại trái
tim mình trong ngực người bạn gái, để lại tuổi thơ và sự sống, không dám ngoái
lại nhìn quê hương lần cuối, mặc đôi tay vô hồn ôm chiếc ba lô con cóc vào lòng
như đang bế trên tay đứa con của thần chết. Rồi những cánh rừng Trường Sơn nuốt
chúng tôi vào như bóng đêm nuốt những con hươu. Lại nhớ câu thơ Xuân Diệu : “
Ta là con nai bị chiều đánh lưới”. Chiến tranh đã giăng lưới đánh bẫy bao thế
hệ trai tráng chúng tôi thời đó, rồi vùi hàng triệu chàng trai “Khi ngã vào
long đất vẫn con trai” ( TMH) vào lòng đất.
Dường như
thân xác Nguyễn Việt Chiến đã về lại hòa bình, nhưng linh hồn anh vẫn còn lãng
đãng chưa ra khỏi những cánh rừng bom đạn, hoặc ẩn hiện trong chiêm bao khói
lửa, mới nhìn thấy những con hươu hòa bình bị bóng tối chiến tranh săn đuổi
trong đoạn thơ đầu rất gợi cảm và hiện đại của anh :
“….Chúng đã
ngủ cả rồi
Những con
hươu bị chiến tranh săn đuổi / Họ đã ngủ cả rồi/ những người lính bị chiến
tranh săn đuổi/ họ nằm mơ gặp lại bầy hươu/ gác sừng lên người bạn vô danh/
trên cánh rừng đã chết…”
Những câu
thơ khá hay này sẽ bị săn đuổi cho tới chết nếu có cặp mắt cú vọ nào rình mò,
dùng kính núp ( kính “lúp” hay kính “núp” là núp vào chỗ kín rồi rình mò theo
dõi) xăm xoi bằng phương pháp luận rất sai là “biểu tượng hai mặt”, là quy chụp
vô lối rất tù mù bố ai lý giải được kiểu “ có vấn đề”. Bằng lối tuyệt đối hóa
chính trị văn học, đám “anh em ta” này sẽ truy bức khổ thơ kia, đại khái : anh
nói ai là hươu đấy ? anh nói ai săn đuổi ai? Đất nước ta đang hòa bình thịnh
vượng, mọi người đang phấn khởi hồ hởi sống và làm việc theo nghị quyết, rừng
núi xanh tươi, anh lại phủ nhận xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp, rồi vu cáo
trắng trợn : “ …cánh rừng đã chết”…Rừng núi quê ta xanh tươi như vậy, dưới sự
lãnh đạo của đảng càng xanh tươi hơn, chết hồi nào anh Chiến, anh chết thì có,
tâm hồn anh chết vì anh đang nghĩ xấu về đất nước ta…Chúng tôi biết anh xỏ xiên
ám chỉ hươu là ai rồi ? hươu là không phải con hươu, em con nai mà hươu trong
bài thơ này của anh là hươu cuội, hươu là dối trá …Anh bảo ai hươu? Ai cuội ?
Chẳng lẽ đảng và nhà nước tốt đẹp nhất, thật thà nhất thế giới của ta là hưu
cuội à ?…Với lối phân tích thơ dung tục và tầm bậy như trên nên tập thơ “Kinh
Bắc” của Hoàng Cầm đã bị cầm tù cùng với nhà thơ Hoàng Hưng mấy năm ( vì anh
Hoàng Hưng cầm tập thơ này đang đi trên đường Hà Nội thì bị bắt, bắt oan, bị tù
oan); may thay, gần đây tập thơ này của Hoàng thi sĩ lại được giải thưởng nhà
nước( chỉ riêng mấy năm tù oan của Hoàng Hưng chưa được kẻ bắt nhầm công khai
xin lỗi).
Thơ hay là
phải đa nghĩa, đa chiều, đa biểu tượng, đa ám ảnh, phải biểu tượng muôn mặt,
còn chỉ “biểu tượng hai mặt” thì không phải văn học. Những con hươu đang bị
bóng đêm, bị chiến tranh săn đuổi từ ngày xưa chạy vào núp trong giấc mơ, trong
câu thơ Nguyễn Việt Chiến mang ý nghĩa biểu trưng, ám ảnh, nửa thực nửa hư.
Những con hươu hòa bình, những con hươu của cái đẹp lấy sự chạy làm vũ khí :
“chuồn nào anh em”, những con hươu của ký ức, là hưu thực cũng là hươu hư, hươu
đấy mà người đấy…ai muốn hiểu sao thì hiểu miễn là tâm hồn anh được nhà thơ
truyền cảm…
Với câu thơ
hay và cảm động “ Chỉ còn lại những gì không còn lại” của Nguyễn Việt Chiến,
thì đám “anh em ta-có vấn đề” kia có thể phải “làm việc’ với anh Chiến mấy buổi
như anh đã bị “làm việc” mấy tháng, mấy năm chỉ vì dám viết lên sự thật, dám
gọi kẻ ăn cắp của công là tham nhũng. Hãy đọc những câu thơ hay trong bài của
Nguyễn Việt Chiến :
“hòa bình
dưới mưa phùn/ được đắp bằng cỏ non và nước mắt”
Những đồng
đội của anh Chiến xưa đã nằm lại, họ được đắp bằng cỏ non bởi vì họ giờ chỉ còn
là trùng trùng bia mộ, trùng trùng nấm đất. Lại nhớ câu thơ của tôi viết về cảm
giác khi đang ngồi trên chiếc xe bọc thép chiến tranh của sư đoàn bảy tiến vào
buổi trưa hòa bình ngày 30-04-1975 : “ Chợt quay lại toàn thấy gò thấy đống /
Cỏ xanh dày xin lặng lẽ che nhau”. Anh Chiến viết câu thơ trên sau câu thơ của
chúng tôi hơn ba mươi năm, nên dĩ nhiên nó phải hay hơn và hàm xúc hơn câu thơ
rừng rực buồn đau của tôi. Hòa bình sao lại được đắp bằng cỏ non ? Vậy
hòa bình đã chết hay sao mà bị vùi trong đất ? Đấy là câu hỏi của các nhà “quy
chụp chủ nghĩa, các nhà bới móc “có vấn đề”, chuyên dùng thước đo một mi li mét
“ biểu tượng hai mặt” để đo thơ văn. Còn với người thưởng thức thơ, người ta sẽ
dễ hiểu rằng, câu thơ trên là câu thơ đang diễn tả tâm trạng u hoài, u buồn của
anh Chiến : anh sống trong hòa bình mà tâm hồn anh vẫn như đang bị vùi trong cỏ
xanh cùng đồng đội xưa đã khuất. Nếu hiểu theo nghĩa đúng của câu thơ, anh
Chiến chắc sẽ được thưởng huy chương 27 tháng bảy vì anh là người không vong ơn
bội nghĩa như ai “ qua cầu rút ván” ?
Trong bài
thơ hay “ Thời đất nước gian lao” của Nguyễn Việt Chiến còn khá nhiều câu thơ
hay để người đọc thơ sung sướng, ngược lại có thể làm kẻ ác ý, những “Gia-ve
của thi ca”( tên nhân vật trong tiểu thuyết “ Những người khốn khổ” của V.Hugo)
nhảy lồng lên sướng vì đã bắt được tang chứng, vật chứng :
“…Vẫn biết
đạn bom không có mắt/ vẫn biết hận thù không thể phân biệt nổi/ đâu là hoa sen
đâu là bong tối”
“…ba mươi
sáu dẻo xương sườn/ réo rắt tấu lên bản đàn tam thập lục/ người gảy đàn thì đau
đớn/ mà bản nhạc viết cho đàn lại reo vui…”
“…mẹ đã sống
với mưa phùn ảm đạm…”/ “…Tổ quốc xanh xao Tổ quốc hao gầy…”/ “…Mẹ đã khóc lúc
rời ga Hàng cỏ / Những đoàn tầu hun hút tuổi hai mươi…” / “…trăng cũng sốt rét
rừng như ta sốt/ trăng mất máu như bạn ta thưở trước…”…
Những câu
thơ hay, ám ảnh, day dứt lòng ta khôn nguôi về “ nỗi buồn chiến tranh”…làm
chúng ta suy nghĩ, day dứt : chúng ta hi sinh to lớn thế để làm gì ? Để giành
độc lập cho đất nước ! Nhưng như cụ Hồ bảo : “ Độc lập mà không có tự do thì
độc lập cũng vô ích ?”. Có lẽ Nguyễn Việt Chiến tâm huyết với lời dạy của cụ
Hồ, nên mới xót xa nhìn vầng trăng hôm nay vẫn còn bị thương, vẫn còn rớm máu :
“trăng mất máu như bạn ta mất máu” chăng ? Nhưng với cái nhìn của các vị “
Gia-ve” thi ca, thì đây là vật chứng có thể đưa anh Chiến vào cái chỗ anh đã
từng vào, mà rằng : “ Này anh Chiến, vầng trăng trên Tổ Quốc ta đẹp như thế,
sáng như thế mà anh dám vu cáo “ trăng sốt rét, trăng mất máu” là sao ? Ý anh
là muốn đổ tội cho ai làm vầng trăng xã hội chủ nghĩa mất máu ? Trong khi đảng
và nhà nước đang lãnh đạo nhân dân và lãnh đạo trăng sao trong tươi sáng hạnh
phúc, vầng trăng phấn khởi rõ mồn một như thế, tươi như hoa như thế mà anh nói
trăng mất máu là ý đồ gì đây ? Anh nên nhớ là chỉ có trăng nước Mỹ và trăng các
nước tư bản Âu châu mất máu thôi, vì vầng trăng bị bóc lột nghe chưa ?”
Họ mà phân
tích thơ theo kiểu truyền thống của họ thì toi rồi Chiến ơi !
Tôi viết bài
báo mọn này không nhằm đánh bóng cho anh Nguyễn Việt Chiến, vì anh đã quá nổi
tiếng với nhiều giải thưởng thơ ( oai mà sang hơn giải B văn nghệ quân đội lần
này nhiều – chính ra anh phải chiếm giải A). Tôi muốn đồng cảm với anh Chiến,
muốn nói rằng thế hệ cầm bút chúng tôi vẫn rất đẹp, vẫn trong sáng và tự hào,
buồn đau, bi thương với nghìn muôn đồng đội đã ngã xuống. Tâm hồn chúng tôi vẫn
còn nằm trong cánh rừng chiến tranh thưở xưa, đêm đêm giấc mơ chúng tôi vẫn bị
dội bom, vẫn bị pháo bầy hủy diệt… Không mang tinh thần này, không thưởng thức
được cái hay của “ Thời đất nước gian lao”. Nhà nước có bỏ ra hàng trăm tỉ đồng
cũng không thuê được kẻ viết thuê để viết nổi một góc bài thơ thương nước,
thương người rất hay này của anh Chiến. Tôi xin phép in kèm một đoạn thơ của
mình dưới đây, trích trong trường ca “ Đất nước hình tia chớp” viết năm 1975,
để chia xẻ và đồng cảm với bạn Nguyễn Việt Chiến của tôi, người mà hầu như tất
cả chúng ta, tất cả nhân dân ta đều rất yêu mến và kính phục.
Sài Gòn sáng 02/02/2010
T.M.H.
*Theo blog quechoa của Nguyễn Quang
Lập
Dân thường Nguyễn Long
Trong cuộc thi thơ lục bát năm 2003 có bốn vạn bài thơ dự thi. Một dân thường tên là Nguyễn Long ở tỉnh Thái Bình dự thi bài Thường dân và được trao giải nhất. Ngày ấy, người ta chuyền tay nhau bản phôtô để đọc. Tác giả của Thường dân trở thành nhân vật của “Hỏi chuyện một người dân”, nhưng không hề nói về thơ mà lại nói về Thường dân nguyên nghĩa.
+ Khi bài thơ “Thường dân” của ông được trao giải nhất báo Văn nghệ trẻ, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, thành viên ban giám khảo cuộc thi có lời bình: “Bài thơ nói những điều ai cũng thấy, cũng biết mà không biết nói thế nào cho thành thơ và... không sai chính trị”. Theo ông, thường dân làm thế nào để nói về nỗi khổ của mình mà không sai chính trị?
- Tôi nghĩ chỉ có những lời nói cũng như những việc làm chống lại Nhà nước, chống lại quyền lợi của dân tộc thì mới gọi là sai chính trị, chứ nếu dân còn đói, còn khổ, cuộc sống còn những bất công... mà nói đúng như vậy thì không thể gọi là sai chính trị. Trường hợp có người nói không đầy đủ hay chưa đúng là phản ánh sai thực tế chứ không phải sai chính trị. Còn nếu như những ai không hiểu hoặc cố tình quy chụp thì lại là chuyện khác.
+ Nhưng thường dân rất khó nói về những nỗi khổ của mình mà thường phải có người khác nói hộ?
- Thường dân là lớp người thấp cổ bé họng, có khổ thì chỉ biết kêu trời chứ biết nói với ai, mà có nói chắc gì người ta đã nghe. Chỉ những kẻ sĩ, những nhà báo, nhà văn... có lương tâm và trách nhiệm với dân thì mới có điều kiện nói thay họ thôi.
+ Viết bài thơ “Thường dân” chắc ông thấm nỗi khổ và muốn nói hộ nỗi khổ thường dân. Theo ông, nỗi khổ của thường dân bây giờ là gì?
- Tôi thấy hầu như đã là người thì ai cũng đều thấm nỗi khổ của dân thường, bởi thường dân là những người không có quyền chức gì trong xã hội. Và ai cũng phải có lúc, có thời phải làm dân. Chỉ có điều cái sự thấm ấy ở mỗi người khác nhau mà thôi. Bản thân tôi sinh ra và lớn lên ở nông thôn, tuổi thơ đã phải gánh phân, cắt cỏ, bốc bùn, đã từng ăn đói mặc rách. Lớn lên đi bộ đội rồi về làm anh cán bộ nhà nước nhưng cuộc sống và tình cảm vẫn gắn với quê nên những nỗi khổ, vất vả của người dân, nhất là nông dân vẫn gắn với mình. Còn nỗi khổ của người thường dân thời nay chủ yếu vẫn là sự nghèo khó. Cuộc sống vật chất của mọi người dân nếu so với vài chục năm về trước thì đã khấm khá hơn nhiều nhưng so với mặt bằng xã hội rộng lớn thì lại có sự chênh lệch quá xa. Đất nước ta 70-80% dân số vẫn là nông dân và không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập đầu người sống bằng nghề nông ở nhiều nơi chỉ vài ba triệu đồng một năm. Anh thử hình dung người ta sống ra sao với mức thu nhập ấy khi ốm đau bệnh tật, thiên tai bão gió... ập đến bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ, bây giờ chẳng phải đi đâu xa, ai ốm đau phải một lần vào bệnh viện, phải đưa con đến trường học không ở diện lắm tiền thì đều thấm nỗi khổ của thường dân.
+ Nói thường dân khổ, nhưng thường dân họ cũng có nhiều cái sướng hơn khối quan chức. Ông có thấy vậy không?
- Sướng, khổ là quan niệm và cuộc sống riêng của từng người nên rất khó nói cho chính xác. Nhưng tôi ít thấy có ông bà quan chức nào vất vả, khổ ải theo nghĩa thông thường hơn dân cả.
+Vậy nếu được lựa chọn, chắc ông sẽ muốn làm quan hơn là thường dân?
- Tôi tin mọi người cũng vậy, nếu được chọn chẳng ai lại không chọn làm quan. Những bậc thánh nhân ngày xưa như Khổng Tử , hay kẻ sĩ, mưu sĩ như Nguyễn Trãi... cũng đều muốn làm quan. Đó là mong muốn đẹp đẽ và cao cả. Chỉ có điều làm quan thế nào và làm quan trong thời thế nào mà thôi.
+ Làm quan phải phấn đấu nhiều, nhưng muốn là thường dân đích thực cũng không dễ. Vì sao ông lại viết “Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân”?
- Thường dân là lớp người chịu thiệt thòi và vất vả nhất trong xã hội. Cứ nhìn người ta sống thì thấy, họ đi làm quần quật, lam lũ suốt ngày, ráo mồ hôi là hết tiền. Thế mà đại bộ phận họ sống vẫn an nhiên vui vẻ, vẫn ăn ngon ngủ yên, khỏe mạnh. Ở một khía cạnh nào đó họ sướng bởi tâm nhàn hơn cả những người có quyền, có tiền đấy thôi.
Phùng Nguyên
Thường Dân
Đông thì chật, ít thì thưa
Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân
Quanh năm chân đất đầu trần
Tác tao sau những vũ vần bão giông.
Khi làm cây mác cây chông
khi thành biển cả khi không là gì
Thấp cao đâu có làm chi
Cỏ ngàn năm vẫn xanh rì cỏ thôi.
Ăn của đất, uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho người mình tin
Ồn ào mà vẫn lặng im
Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn
Trong cuộc thi thơ lục bát năm 2003 có bốn vạn bài thơ dự thi. Một dân thường tên là Nguyễn Long ở tỉnh Thái Bình dự thi bài Thường dân và được trao giải nhất. Ngày ấy, người ta chuyền tay nhau bản phôtô để đọc. Tác giả của Thường dân trở thành nhân vật của “Hỏi chuyện một người dân”, nhưng không hề nói về thơ mà lại nói về Thường dân nguyên nghĩa.
+ Khi bài thơ “Thường dân” của ông được trao giải nhất báo Văn nghệ trẻ, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, thành viên ban giám khảo cuộc thi có lời bình: “Bài thơ nói những điều ai cũng thấy, cũng biết mà không biết nói thế nào cho thành thơ và... không sai chính trị”. Theo ông, thường dân làm thế nào để nói về nỗi khổ của mình mà không sai chính trị?
- Tôi nghĩ chỉ có những lời nói cũng như những việc làm chống lại Nhà nước, chống lại quyền lợi của dân tộc thì mới gọi là sai chính trị, chứ nếu dân còn đói, còn khổ, cuộc sống còn những bất công... mà nói đúng như vậy thì không thể gọi là sai chính trị. Trường hợp có người nói không đầy đủ hay chưa đúng là phản ánh sai thực tế chứ không phải sai chính trị. Còn nếu như những ai không hiểu hoặc cố tình quy chụp thì lại là chuyện khác.
+ Nhưng thường dân rất khó nói về những nỗi khổ của mình mà thường phải có người khác nói hộ?
- Thường dân là lớp người thấp cổ bé họng, có khổ thì chỉ biết kêu trời chứ biết nói với ai, mà có nói chắc gì người ta đã nghe. Chỉ những kẻ sĩ, những nhà báo, nhà văn... có lương tâm và trách nhiệm với dân thì mới có điều kiện nói thay họ thôi.
+ Viết bài thơ “Thường dân” chắc ông thấm nỗi khổ và muốn nói hộ nỗi khổ thường dân. Theo ông, nỗi khổ của thường dân bây giờ là gì?
- Tôi thấy hầu như đã là người thì ai cũng đều thấm nỗi khổ của dân thường, bởi thường dân là những người không có quyền chức gì trong xã hội. Và ai cũng phải có lúc, có thời phải làm dân. Chỉ có điều cái sự thấm ấy ở mỗi người khác nhau mà thôi. Bản thân tôi sinh ra và lớn lên ở nông thôn, tuổi thơ đã phải gánh phân, cắt cỏ, bốc bùn, đã từng ăn đói mặc rách. Lớn lên đi bộ đội rồi về làm anh cán bộ nhà nước nhưng cuộc sống và tình cảm vẫn gắn với quê nên những nỗi khổ, vất vả của người dân, nhất là nông dân vẫn gắn với mình. Còn nỗi khổ của người thường dân thời nay chủ yếu vẫn là sự nghèo khó. Cuộc sống vật chất của mọi người dân nếu so với vài chục năm về trước thì đã khấm khá hơn nhiều nhưng so với mặt bằng xã hội rộng lớn thì lại có sự chênh lệch quá xa. Đất nước ta 70-80% dân số vẫn là nông dân và không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập đầu người sống bằng nghề nông ở nhiều nơi chỉ vài ba triệu đồng một năm. Anh thử hình dung người ta sống ra sao với mức thu nhập ấy khi ốm đau bệnh tật, thiên tai bão gió... ập đến bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ, bây giờ chẳng phải đi đâu xa, ai ốm đau phải một lần vào bệnh viện, phải đưa con đến trường học không ở diện lắm tiền thì đều thấm nỗi khổ của thường dân.
+ Nói thường dân khổ, nhưng thường dân họ cũng có nhiều cái sướng hơn khối quan chức. Ông có thấy vậy không?
- Sướng, khổ là quan niệm và cuộc sống riêng của từng người nên rất khó nói cho chính xác. Nhưng tôi ít thấy có ông bà quan chức nào vất vả, khổ ải theo nghĩa thông thường hơn dân cả.
+Vậy nếu được lựa chọn, chắc ông sẽ muốn làm quan hơn là thường dân?
- Tôi tin mọi người cũng vậy, nếu được chọn chẳng ai lại không chọn làm quan. Những bậc thánh nhân ngày xưa như Khổng Tử , hay kẻ sĩ, mưu sĩ như Nguyễn Trãi... cũng đều muốn làm quan. Đó là mong muốn đẹp đẽ và cao cả. Chỉ có điều làm quan thế nào và làm quan trong thời thế nào mà thôi.
+ Làm quan phải phấn đấu nhiều, nhưng muốn là thường dân đích thực cũng không dễ. Vì sao ông lại viết “Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân”?
- Thường dân là lớp người chịu thiệt thòi và vất vả nhất trong xã hội. Cứ nhìn người ta sống thì thấy, họ đi làm quần quật, lam lũ suốt ngày, ráo mồ hôi là hết tiền. Thế mà đại bộ phận họ sống vẫn an nhiên vui vẻ, vẫn ăn ngon ngủ yên, khỏe mạnh. Ở một khía cạnh nào đó họ sướng bởi tâm nhàn hơn cả những người có quyền, có tiền đấy thôi.
Phùng Nguyên
Thường Dân
Đông thì chật, ít thì thưa
Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân
Quanh năm chân đất đầu trần
Tác tao sau những vũ vần bão giông.
Khi làm cây mác cây chông
khi thành biển cả khi không là gì
Thấp cao đâu có làm chi
Cỏ ngàn năm vẫn xanh rì cỏ thôi.
Ăn của đất, uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho người mình tin
Ồn ào mà vẫn lặng im
Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn
Chỉ mong ấm áo no cơm
Chắt chiu dành dụm thảo thơm ngọt lành.
Hòa vào trời đất mà xanh
Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân…
Nguyễn Long
Tre Việt Nam
Thơ: Nguyễn Duy
Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù cát sỏi đá vôi bạc màu
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù cát sỏi đá vôi bạc màu
Có gì
đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chất dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Mỡ màu ít chất dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu
nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre kia không ngại khuất mình bóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay vin tay níu tre gần nhau thêm
Tre kia không ngại khuất mình bóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân
Thương
nhau tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người
Cho dù thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho con
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người
Cho dù thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho con
Loài
tre đâu chịu mọc cong
Mới lên đã thẳng như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho măng
Mới lên đã thẳng như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho măng
Măng
non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng, thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu
Mai sau,
mai sau,
mai sau…
Đất xanh, tre mãi xanh màu tre xanh!
Đã mang dáng thẳng, thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu
Mai sau,
mai sau,
mai sau…
Đất xanh, tre mãi xanh màu tre xanh!
C©y tre
Tôn Nhật Quang
Tác giả: Thép mới
Cây tre là người bạn thân của nông thôn Việt Nam ,
bạn thân của nhân dân Việt Nam .
Nước Việt Nam
xanh muôn vàn cây lá khác nhau
Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là cây tre
nứa
Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật
làng tôi… đâu đâu cũng có nứa tre làm bạn
Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non
mọc thẳng
Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt
Dáng tre vươn mộc mạc, mầu tre tươi nhũn nhặn
Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc
Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người
Nhà thơ có lần ca ngợi: Bóng tre trùm mát rượi
Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn
Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái chùa cổ kính
Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hóa lâu đời
Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân Việt Nam dựng nhà,
dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang
Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp
Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm công nghìn việc khác nhau
Tre là cánh tay của người nông dân
Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh năm
Tre với người như thế đã mấy nghìn năm
Một thế kỷ “văn minh” “khai hóa” của thực dân cũng không làm được một tấc
sắt
Tre vẫn còn phải vất vả mãi với người
Cối xay tre, nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc
Trong mỗi gia đình Việt Nam ,
tre là người nhà, tre khăng khít với đời sống hàng ngày
Dang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu
thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:
Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng…
Tre còn là nguồn vui duy nhất của tuổi thơ
Các em bé còn có đồ chơi gì nữa ngoài mấy que chuyền đánh chắt bằng tre
Tuổi già hút thuốc làm vui
Với chiếc điếu cày tre là khoan khoái
Nhớ lại vụ mùa trước, nghĩ đến những mùa sau, hay nghĩ đến một ngày mai sẽ
khác…
Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm mắt
xuôi tay, nằm trên giường tre, tre với mình, sống có nhau, chết có nhau, chung
thủy
Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất
Người xưa có câu: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”
Tre là thẳng thắn, bất khuất!
Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta
Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc
Buổi đầu, không một tấc sắt trong tay, tre là tất cả, tre là vũ khí
Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng lên Thành đồng Tổ quốc!
Và sông Hồng bất khuất có cái chông tre
Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù
Tre xung phong vào xe tăng, đại bác
Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín
Tre hy sinh để bảo vệ con người
Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu
Tám, chín năm trường kỳ kháng chiến giải phóng, ta đã trải những ngày cơm
thiếu gạo khan
Có anh bộ đội nào quên được vị măng đắng, măng nứa
Trong rừng sâu, còn đốt nứa lấy than ăn muối
Tre nứa thương anh bộ đội, tre nứa lại nuôi anh
Tre yêu anh bộ đội, vì anh bộ đội chính là người nông dân mặc áo lính
Khói lửa xông pha, tình ta càng thêm keo sơn gắn bó
Ngày xưa, về đời vua Hùng Vương, có người anh hùng cứu nước làng Gióng
Người anh hùng làng Gióng đuổi giặc Ân, nhổ tung bụi tre, vung lên thay gậy
sắt
Tre của người anh hùng đời xưa đã dẹp tan quân giặc nước
Tre thời nay lại có những anh hùng của thời nay
Tre anh hùng của một dân tộc anh hùng
Tre đi vào cuộc trường chinh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Tre phá đồn giặc, tre đi xung kích
Những đòn tre, những thang tre, những liếp nứa đã bắc qua cầu, đã mở đường
cho anh bộ đội tiến lên… nước Việt Nam tiến lên
Không một trở lực nào ngăn được bước chân anh bộ đội, vì anh bộ đội có nhân
dân
Những người dân công, những người cha, những người mẹ, những người chị,
những người vợ, những người thân yêu nhất của anh bộ đội, đi dân công phục vụ
tiền tuyến
Đường xa, gánh nặng, bước chân đi thoăn thoắt
Dốc núi, đèo cao, đòn gánh kĩu kịt…
Bộ đội qua sông, thì có ngay bè nứa vạn chài và những thuyền nan tre, sẵn
sàng phục vụ chuyển quân
Từ thuở ấy mới có câu: Bộ đội với dân như cá với nước…
Có ai quên được những chuyến đò ngang qua vị trí quân thù…
Tình quân dân còn sâu nặng hơn tình cá với nước
Điệu “hò kéo pháo” vang lên là giai đoạn mới của cuộc trường chinh bắt đầu
Trong ta không phải chỉ có tre nứa:
Ta đã cướp được súng của giặc bắn vào đầu giặc
Những khẩu đại bác, chiến lợi phẩm Biên giới, Nghĩa Lộ, Hòa Bình, đi lên
mặt trận Điện Biên Phủ
Tre nứa lại bạn cùng sắt, thép
Chạc nứa, đòn tre cõng pháo đi lên.
Tre đã dự trận Điện Biên Phủ
Chiến thắng đi lên!
Và đây là những bước chân đi vang tiếng nhạc của cuộc hành quân chiến
thắng, với quang vinh trên những lá cờ còn in khói lửa và dấu bụi trường chinh
Giờ đây ta không phải chỉ có tre, có nứa
Những người anh hùng của thời nay đã đến lúc có sắt, có thép trong tay
Tre với anh bộ đội
Tre hòa tiếng hát khải hoàn
Giữa đoàn quân nhạc, rộn vang lên mười cây sáo trúc
Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê
Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi, khóm tre làng rung lên man mác
khúc nhạc đồng quê
Diều bay, diều lá tre bay lưng trời… Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời… Gió
đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều
Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời
cao của trúc, của tre…
“Tre già măng mọc”
Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam
Lứa măng non của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Các em, các em rồi đây lớn lên, sẽ quen dần với sắt, thép và xi-măng cốt
sắt
Nhưng, nứa, tre còn mãi mãi với các em, còn mãi với dân tộc Việt Nam , chia bùi
sẻ ngọt của những ngày mai tươi hát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc hòa
bình
Ngay mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa
Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát
Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình
Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi
Những chiếc đu tre vẫn dướn bay bổng
Tiếng sáo diều tre cao vút mãi…
Cây tre Việt Nam !
Cây tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm
Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân
tộc Việt Nam .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét