Tướng Lưu Á Châu bàn về văn
hoá
Nguyễn Hải Hoành - 19-04-2011 03:09:57 PM
VanVN.Net - Người Trung Quốc giỏi nhất về chuyện ca
tụng công đức, thứ nhì là tố giác, thứ ba là giở thủ đoạn, cuối cùng là khôn
ngoan bo bo giữ mình...
Ngày nay Trung Quốc đang tiến những bước dài, đồng thời cũng
để lộ ra không ít vấn đề. Tất cả mọi vấn đề đều hướng về chế độ mà mọi vấn đề
về chế độ đều hướng về văn hoá, song tất cả mọi vấn đề về văn hoá đều hướng vào
tôn giáo.
Tôn giáo quyết định văn hoá mà văn hoá thì quyết định tính
cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết định số phận dân tộc.
Xin nêu thí dụ chống tham nhũng. Trừng trị tham nhũng không
thể diệt được tận gốc nạn tham nhũng. Có một biện pháp là hoàn thiện chế độ xã
hội, mà phương pháp căn bản là bắt tay từ văn hoá. Thí dụ biện pháp “Lương cao
nuôi dưỡng sự liêm khiết”. Ở Trung Quốc lương cao chưa chắc đã có thể nuôi
dưỡng được sự liêm khiết. Tại sao thế? Văn hoá Trung Quốc có màu sắc “văn hoá
gia đình” rất nặng. Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại [Trong 3 điều bất hiếu,
điều lớn nhất là không có con nối dõi]. Càng nhiều con cháu càng lắm phúc. Đời
cha nhất định phải để dành tiền của cho con cháu. Điều này khác hẳn văn hoá
phương Tây. Những kẻ làm cha như chúng ta, lương bổng bản thân có cao đến đâu
cũng vẫn muốn để dành cho con, bởi thế người ta vẫn cứ tham. Đây cũng là một
nguyên nhân hình thành “văn hoá hối lộ” trong quan trường Trung Quốc.
Sự hình thành văn hoá Trung Quốc có 3 nhân tố chủ yếu: thứ
nhất là hoàn cảnh sinh tồn; thứ hai là tôn giáo; thứ ba là chính sách ngu dân.
1. Hoàn cảnh sinh tồn
Từ xưa tới nay, số dân trên mảnh đất Trung Quốc này đều nhiều
hơn châu Âu. Đàn bà Trung Quốc bị “văn hoá gia đình” biến thành máy đẻ.
Châu Âu có diện tích bình quân đất đai trên đầu người cao hơn
Trung Quốc rất nhiều thế mà họ vẫn cảm thấy chật hẹp, không thở hít được nữa,
phải khai thác vùng đất mới, bởi thế mà có việc khám phá các đại lục mới.
Người Trung Quốc thì tranh đấu trong hoàn cảnh ác liệt này.
Phép sinh tồn rất khắc nghiệt. Nhưng khi nói về hình thành văn hoá mà chỉ nhấn
mạnh hoàn cảnh là chưa đủ. Hoàn cảnh xấu tạo nên một loại văn hoá không thành
công; hoàn cảnh tốt cũng vẫn có thể tạo dựng nên một loại văn hoá không thành
công. Cần xem xét văn hoá Trung Quốc từ hai mặt. Từ xưa Trung Quốc đã có thảm
thực vật rất tốt, khắp nơi là rừng. Vùng Sơn Tây có nhiều than đá như thế chứng
tỏ thời cổ rừng ở đấy rất tốt. Do có quá nhiều rừng nên người ta chẳng cần đi
quá xa nơi ở cũng có thể kiếm được gỗ, vì vậy người ta dùng gỗ để làm nhà, vừa đơn
giản vừa đỡ mất công. Lâu ngày kiến trúc Trung Quốc bèn trở thành kiến trúc có
hình thức kết cấu thổ mộc.
Khi tiến sang thời đại văn minh, các dân tộc châu Âu có môi
trường ác liệt hơn Trung Quốc rất nhiều: rừng ít, đá lắm. Muốn làm nhà, họ chỉ
có cách lấy đá trên núi mà làm. Lâu ngày nền kiến trúc phương Tây trở thành
kiến trúc gạch đá. Qua nhiều nghìn năm, rừng của chúng ta bị đốn hết, các kiến
trúc thổ mộc sụp đổ. Kiến trúc kết cấu gạch đá của phương Tây thì giữ lại được,
rừng của họ cũng giữ được. Tại Ý, hiện nay vẫn thấy các kiến trúc có từ hai
nghìn năm trước, tương đường đời nhà Tần nhà Hán. Tại Trung Quốc hiện nay cả
đến kiến trúc đời nhà Minh cũng hiếm thấy.
2. Tôn giáo Trung Quốc có ba tôn giáo chính là Phật Giáo, Đạo
Giáo và Nho Giáo (tôi gọi Nho Học là một loại tôn giáo). Ba tôn giáo này có
trách nhiệm không thể thoái thác đối với sự hình thành trạng thái tâm lý
và đạo đức ngày nay của người Trung Quốc. Lịch sử cho thấy ba tôn giáo trên căn
bản không thể chấn hưng được dân tộc Trung Hoa.
Xin để tôi so sánh đối chiếu Ki Tô Giáo với tôn giáo của
Trung Quốc.
Văn hoá Trung Quốc dạy chúng ta “Nhân chi sơ, tính bản thiện”
[con người lúc mới ra đời có bản tính lương thiện]. Tôn giáo của phương Tây thì
ngược lại, cho rằng con người sinh ra đã là xấu [nguyên văn chữ Hán: ác], bản
tính con người cũng xấu. Bởi vậy, tôn giáo phải hạn chế anh, bắt anh suy ngẫm
về chính mình. Văn hoá phương Tây cho rằng loài người có tội tổ tông [Sáng Thế
Ký trong Cựu Ước chép chuyện thuỷ tổ đầu tiên của loài người là ông Adam và bà
Eva không nghe lời răn của Thượng Đế, đã ăn vụng trái cấm, tức đã phạm tội].
Lòng người đen tối.
Trong số các đồng chí có người đã trải qua “Cách mạng Văn
hoá”, xin hỏi cái đen tối nhất ở đâu? Cái đen tối nhất thì ở trong lòng người.
[Trong Cách mạng Văn hoá, vì để chứng tỏ sự trung thành với “minh chủ”, nhiều
người Trung Quốc đã phạm những lỗi đạo đức khó có thể tưởng tượng, thí dụ bắn
giết nhau, hành hạ thể xác và tinh thần vô cùng dã man chính bạn bè, đồng chí,
đồng đội, đồng sự của mình; vợ từ bỏ chồng, con từ bỏ cha chỉ vì chồng, cha bị
vu cáo là chống Đảng; có Hồng Vệ Binh cắt họng đồng chí mình dám nói sự thật
...] Tâm hồn mỗi người đều có mặt vô cùng bẩn thỉu. Văn hoá phương Tây mổ
xẻ, hé lộ nó ra, trưng nó ra. Phê phán nó, kiềm chế nó. Văn hoá phương Đông thì
ôm ấp nó, nuôi dưỡng nó. Nhà thờ ở phương Tây có phòng xưng tội [nguyên
văn: sám hối]. Người ta vào nhà thờ trình bày với thánh thần các thứ
trong tâm hồn mình.
Nói cho thần thánh nghe mọi cái xấu xa bẩn thỉu của mình thì
người ta thấy nhẹ nhõm. Tâm hồn người ta được rửa sạch. Hồi sang Mỹ tôi có vào
nhà thờ ngồi hẳn một ngày trời. Tôi phát hiện thấy một cảnh rất thú vị: mọi
người ai nấy khi vào nhà thờ thì mặt mày ủ ê, khi đi ra thì sắc mặt thư thái
nhẹ nhõm. Về sau tôi mới dần dà hiểu được bí quyết của chuyện ấy. Lâu ngày,
người ta trở thành thành con người lành mạnh, con người có tâm trạng và tâm hồn
đặc biệt kiện toàn. Con người ai cũng có ham muốn. Nhưng người ta phải kiềm chế
ham muốn của mình, ai nấy ắt phải tự mình (chứ không phải người khác)
kiềm chế bản thân.
Người Trung Quốc không biết kiềm chế mình, không biết tra
khảo bản thân, thế là người ta đi kiềm chế kẻ khác, tra khảo kẻ khác. Quất roi
và tra khảo bản thân là chuyện đau khổ. Chỉ khi nào trong lòng mình mãi mãi có
tín ngưỡng, có tín ngưỡng vĩnh hằng với thần thánh, thì mới có thể làm được như
thế.
Rất nhiều đồng chí đã đi thăm nhà thờ ở phương Tây. Ở đấy
thánh thần xuất hiện với hình ảnh đầm đìa máu, chịu khổ chịu nạn. Jesus bị đóng
đinh trên giá chữ thập. Đức Mẹ không đổ máu nhưng rơi lệ. Đấy thực sự là hoá
thân của con người, là hoá thân của sự khổ nạn và tư tưởng của con người. Thần
thánh trong tôn giáo phương Tây nhìn vào tựa như thần thánh, thực ra là con
người. Cái chết của Jesus đã hoàn tất việc ngài lột xác [nguyên văn: thoát
biến] từ thánh thần thành con người. Chỉ con người mới chết.
Nhưng thánh thần trong các đền miếu của Trung Quốc thì mới là
thánh thần. Bạn hãy xem hình ảnh các vị thần thánh ấy: bụng chảy xệ, nét mặt
chẳng lo nghĩ gì sất, nhăn nhở cười cợt, thụ hưởng của thờ cúng. Vị nào vị ấy
ăn đến béo rụt đầu rụt cổ. Người phương Tây đến nhà thờ là để sám hối. Chúng ta
lên đền lên chùa là để hối lộ.
Chẳng phải thế hay sao? Vì muốn làm được một chuyện gì đây,
chúng ta khấn vái thần thánh, bỏ tiền mua mấy nén hương thắp lên hoặc bầy lên
mâm những thứ dân gian thường ăn như trái cây gì gì đó, rồi im lặng cầu nguyện.
Như thế chẳng phải hối lộ thì là gì?
Người phương Tây đến nhà thờ để giải thoát nỗi khổ về tinh
thần. Chúng ta lên đền chùa để giải quyết nỗi khổ trong đời sống thực tế. Thần
thánh trong tôn giáo phương Tây luôn luôn chịu khổ còn nhân dân thì không chịu
khổ. Thần thánh trong tôn giáo phương Đông thì hưởng thụ, còn dân chúng thì
chịu khổ. Đây là khác biệt lớn nhất giữa tôn giáo phương Đông với phương Tây.
Ở nước ngoài, nhà thờ bao giờ cũng xây dựng tại trung tâm đô
thị, gần gũi với dân. Đền chùa Trung Quốc thì bao giờ cũng xây dựng trong rừng
sâu núi cao, xa rời dân. Tôi từng nói người Trung Quốc về cơ bản là một dân tộc
không có tín ngưỡng. Nói không có tín ngưỡng không phải là không có hình thức
tín ngưỡng. Ngược lại, những thứ người Trung Quốc tín ngưỡng thì phức tạp nhất,
người ta tin cả các đại sư khí công. Cái quái gì cũng tin lại chính là chẳng
tin cái gì hết. Trong lòng người Trung Quốc không có vị trí của một vị thần
thánh vĩnh hằng. Nói sâu một chút, tức là chẳng có sự mưu cầu theo đuổi tinh
thần văn hoá có tính tận cùng! Loại người đó không mở rộng phạm vi quan tâm của
mình ra tới bên ngoài gia đình, thậm chí cá nhân. Nếu mở rộng sự quan tâm ấy ra
thì nhất định sẽ là làm hại kẻ khác. Một dân tộc như vậy sao lại không “năm bè
bảy mảng” kia chứ?
Tại phương Tây, khi trên đường có một chiếc xe hỏng thì hầu
như tất cả các xe khác đều dừng lại, người ta đến hỏi anh có cần giúp đỡ gì
không. Tại Trung Quốc thì hầu hết xe đều bỏ đi, khó khăn lắm mới có người dừng
xe hỏi anh, có lẽ tôi còn ngờ vực, anh làm gì thế? Anh có mục đích gì.
Phương Tây đã thắng trong cuộc cạnh tranh với phương Đông cả
nghìn năm nay. Tôn giáo phương Tây đã thắng trong cuộc cạnh tranh với tôn giáo
phương Đông. Thắng lợi của tôn giáo là thắng lợi thế nào? Tôi cho rằng đó là
một loại thắng lợi về tinh thần. Không có tín ngưỡng thì không có sức mạnh tinh
thần. Cái chúng ta thiếu lại chính là cái người ta có.
Hãy nói về chuyện xây đền chùa. Phương Tây khi xây đền chùa
thường là bạt hẳn một quả đồi. Đó là một kiểu khí thế, một kiểu dũng khí đấu tranh
với thiên nhiên. Người Trung Quốc xây đền chùa thường hay xây trong núi sâu.
Xem ra là hoà nhập cùng núi rừng thành một khối, trên thực tế là một kiểu đầu
cơ. Có một bức tranh cổ tên là Ngôi chùa cổ trong núi sâu, rất nổi tiếng, nhưng
nhìn vào tranh chẳng thấy một bức tường hay một viên ngói nào cả. Bức tranh vẽ
gì vậy? Một lối mòn chạy giữa hai quả núi, một nhà sư quẩy đôi thùng đi gánh
nước. Rốt cuộc bức hoạ có ý gì? Là nói ngôi chùa cổ trong núi sâu, chùa và núi
hoà làm một với nhau. Chúng ta khẳng định rằng ý của bức hoạ rất khôn khéo.
Người Trung Quốc có tâm lý đầu cơ rất nặng, ai cũng chỉ muốn không làm mà hưởng. Ngày nay, trong thời đại cải cách mở cửa, có biết bao nhiêu người lao vào biển thương mại, ai nấy đều nghĩ “Ngày mai đến lượt mình [làm giàu] rồi”, Họ muốn làm cái bộ phận “Để một số người giàu lên trước” ấy. Sau nhiều năm được giáo dục “Vì nhân dân phục vụ” mà họ lại đều muốn trở thành đối tượng đựơc phục vụ.
Người Trung Quốc có tâm lý đầu cơ rất nặng, ai cũng chỉ muốn không làm mà hưởng. Ngày nay, trong thời đại cải cách mở cửa, có biết bao nhiêu người lao vào biển thương mại, ai nấy đều nghĩ “Ngày mai đến lượt mình [làm giàu] rồi”, Họ muốn làm cái bộ phận “Để một số người giàu lên trước” ấy. Sau nhiều năm được giáo dục “Vì nhân dân phục vụ” mà họ lại đều muốn trở thành đối tượng đựơc phục vụ.
Người Trung Quốc trước đời Tần thì không như thế. Sau đời
Hán, đặc biệt sau khi Lưu Triệt [tức Hán Vũ Đế, 156-87 trước CN] độc tôn Nho
thuật [tức Nho học, Nho giáo] thì người Trung Quốc đã thay đổi.
Tôi rất thích đọc bộ Sử Ký. Đọc hết sách này mà chẳng thấy có
đoạn nào viết về những kẻ phản bội. Ngày nay chúng ta có biết bao nhiêu kẻ phản
bội! Thời xưa có rất ít kẻ cáo giác. Thời nay thì khắp nơi đều có!
Chính uỷ Đại học công trình không quân Vương Hồng Sinh đến
thăm tôi. Hồi ở Ban chính trị không quân, anh ấy và tôi là chiến hữu với nhau.
Hai chúng tôi nhắc đến một chuyện thế này: đơn vị Vương Hồng Sinh có một anh
cán sự, là người được lãnh đạo rất coi trọng. Một đồng sự của anh ta ngủ với
gái; vị cán sự ấy bèn vác ghế đến ngồi lỳ tận nửa đêm ngoài cửa nhà người đồng
sự, cho tới lúc bắt được hai người kia hủ hoá với nhau. Anh cán sự được biểu
dương. Tôi than thở căm tức mãi không thôi. Tôi bảo: sức mạnh nào đã chi phối
anh ta ngồi trong bóng đêm lâu đến thế ? Tuyệt đối là một loại ý thức phạm tội.
Thời xưa, Bảo Định, Dịch Thuỷ là nơi sinh ra những Kinh Kha,
Cao Tiệm Ly, Điền Quang, Phàn Ư Kỳ [4 nhân vật anh hùng nổi tiếng trong vụ ám
sát không thành Tần Thuỷ Hoàng]. “Gió vù vù, hề, sông Dịch lạnh ghê, Tráng sĩ
một đi, hề, không trở về.” [câu thơ Kinh Kha cảm tác khi qua sông Dịch trên
đường đi mưu sát Tần Thuỷ Hoàng]. Trong kháng chiến chống Nhật, phủ Bảo Định có
nhiều Hán gian [nguyên văn: Nhị cẩu tử, tên thời trước gọi cảnh sát] nhất. Hồi
làm ở Hội nhà văn tôi có đến Bảo Định sưu tầm dân ca. Một ông nông dân hát cho
tôi nghe một bài ca ngày xưa: “Năm ấy giặc Nhật đến làng, chúng tôi vác súng đi
lính ......” Về sau tôi mới biết ông ta đi lính gì. Lính nguỵ.
Ở nước ngoài không phải là không có kẻ phản bội, nhưng ít hơn
nhiều so với Trung Quốc. Sức mạnh nào đã tác động đến người ta? Sức mạnh tinh
thần.
Năm 1986 tôi sang Mỹ. Đêm khuya ra đường, đèn tín hiệu giao
thông bật đỏ, chẳng thấy chiếc xe nào chạy cả, tất cả xe đều tự động dừng lại ở
ngã tư. Tôi không hiểu, bảo người Mỹ sao mà ngốc thế nhỉ. Về sau tôi mới biết
đấy là sự tự kiềm chế của họ. Kiềm chế bản thân là cứu vớt tâm hồn. Việc nhỏ đã
thế, việc lớn lại càng thế.
Người Nhật nói, trận địa Trung Quốc rất dễ bị chọc thủng. Lê
Minh [triết gia Trung Quốc đương đại nổi tiếng là “khùng”] nói rất hay: “Tôn
giáo Trung Quốc biến dân chúng thành bầy cừu.”
Đều là cố thủ trận địa, người phương Tây tuy cũng sợ nhưng họ
có thể kiềm chế bản thân. Chúng ta thì sao? Trước hết là mong người khác làm
bia đỡ đạn. Thấy người khác bỏ chạy thì nghĩ, vì sao mày chuồn? Tao cũng chuồn.
Mày đi lính nguỵ no nê cơm rượu, tao cũng đi. Mày tham ô, tao cũng tham ô. Tao
không chịu kém mày. Tại các nước phương Tây không phải không có chuyện ăn hối
lộ nhưng nhìn chung ít hơn chúng ta. Khi nhận hối lộ, lương tâm và tinh thần
người ta sẽ ràng buộc họ.
Phó Chủ tịch Trì Hạo Điền [Thượng tướng, sinh 1929, thời gian
1998-2003 làm Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Trung
Quốc] có kể một chuyện để lại ấn tượng rất sâu sắc đối với tôi. Ông kể, trong
thời kỳ chống Nhật vùng căn cứ địa Giao Đông có bảy tám tên lính Nhật vác cờ
mặt trời [tức quốc kỳ Nhật] đi càn, ba bốn chục nghìn quân dân căn cứ địa bỏ
chạy hết. Sói đuổi cừu mà.
Trên xe buýt một cô gái bị cướp, xe đầy ắp người mà chẳng ai
ho he. Cô gái xúc động thốt lên: “Cha tôi kể năm xưa một tên giặc Nhật cai quản
cả một huyện của chúng ta. Ngày ấy tôi không tin, bây giờ thì tin rồi.”
Hồi “Cách mạng văn hoá”, ga xe lửa lúc nào cũng đông nghịt.
Khi tàu đến, người ta chen nhau ùa vào ga lên tàu. Một cô nhân viên soát vé
nói: các ông bà đông thế này, một đứa con gái như tôi không thể nào giữ được
ai, mà tôi cũng chẳng muốn làm thế. Bắt giữ ai nào? Giữ người đầu tiên chen
vào. Thế là ai nấy ngoan ngoãn xếp hàng.
3. Kẻ thống trị các thời kỳ trước kia thực hành chính sách
ngu dân Tôn giáo Trung Quốc có mấy loại, tuy khác nhau về tư tưởng nhưng trên
mặt chủ nghĩa chống hiểu biết hoặc chủ trương ngu dân thì đều như nhau. Chính
vì thế mà tôn giáo mới được tầng lớp thống trị coi trọng. Dưới sự giáp công của
văn hoá tôn giáo và chính sách ngu dân của bọn thống trị, người Trung Quốc hình
thành quần thể như ngày nay. Người Trung Quốc giỏi nhất về chuyện ca tụng công
đức, thứ nhì là tố giác, thứ ba là giở thủ đoạn, cuối cùng là khôn ngoan bo bo
giữ mình [nguyên văn: minh triết bảo thân].
Người Mãn Thanh thống trị Trung Quốc thành công nhất. Họ hiểu
rõ đặc tính quan trường của người Trung Quốc: dốc lòng trung thành với cá nhân,
không trung thành với nhà nước. Ai có vú thì người ấy là mẹ [Ai có sữa
cho bú thì nhận người ấy làm mẹ. Ý nói vì tham lợi mà vong ân bội nghĩa, ai cho
mình quyền lợi thì theo người đó].
Trong việc thống trị ba dân tộc Hán, Mông, Tạng ở Trung Quốc,
người Mãn Châu nhằm vào các đặc điểm khác nhau của ba dân tộc này để sử dụng
những mánh khoé khác nhau. Người Tây Tạng tin Phật Giáo, triều đình nhà Thanh
cho dựng ngay tại Thừa Đức [1 trong 10 địa điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng
nhất Trung Quốc, cách Bắc Kinh 180 km] một ngôi chùa phỏng theo kiểu chùa Tây
Tạng, đón Lạt Ma về kinh đô làm ông lớn. Người Mông Cổ nhanh nhẹn dũng mãnh thì
dùng thủ đoạn hôn nhân, gả con gái hoàng tộc cho vương công Mông Cổ. Mày đẻ ra
con trai thì nó là cháu ngoại tao. Đối với người Hán thì dùng khoa cử. Người
Hán có tật thích làm quan. Chỉ cần cho mày làm quan, tựa như quẳng khúc xương
cho con chó, là mày cúi đầu cụp tai ngoan ngoãn nghe theo.
Hồi tôi sang Mỹ, thày hướng dẫn tôi là người chuyên nghiên
cứu về Mao Trạch Đông. Ông ấy cho rằng trong đời mình, Mao Trạch Đông tổng cộng
làm được 31 việc:
1- Năm 1921 vào Đảng;
2- Năm 1925 chuyển sang theo nông dân;
3- Năm 1923-1927 vào Quốc Dân Đảng;
4- Năm 1928 xây dựng căn cứ địa ở nông thôn;
5- Xây dựng Khu Xô
Viết Giang Tô;
6- Sự kiện Phú Điền [sự kiện nội bộ đảng CSTQ thanh trừng
giết nhầm nhiều cán bộ của đảng năm 1930 tại căn cứ địa Phú Điền tỉnh Giang
Tô];
7- Năm 1925 đi Trường chinh;
8- Hội nghị Tuân Nghĩa [hội nghị mở rộng Bộ chính trị ĐCSTQ
họp tháng 1/1935 tại Tuân Nghĩa tỉnh Quý Châu, xác lập quyền lãnh đạo của Mao
Trạch Đông; được coi là bước ngoặt của cách mạng Trung Quốc];
9- Tranh giành quyền lãnh đạo Đảng CSTQ với Trương Quốc Đào;
10- Năm 1937 hợp tác với Quốc Dân Đảng;
11- Kết hôn với Giang Thanh;
12- Chỉnh phong ở Diên
An;
13- Đại hội VII xác lập tư tưởng Mao Trạch Đông;
14- Giành chính quyền trên cả nước;
15- Tiến hành cải cách ruộng đất;
16- Năm 1950 tham gia cuộc chiến tranh Nam Triều Tiên;
17- Sự kiện Cao Cương [nguyên phó Chủ tịch nước CHND Trung
Hoa; năm 1954 bị kết tội chia rẽ đảng, bị kỷ luật, tự tử chết 1954];
18- Tam phản ngũ phản [2 phong trào trong thời gian cuối 1951
đến 10/1952. Tam phản: chống tham ô, lãng phí và quan liêu; Ngũ phản: trong ngành
công thương nghiệp tư doanh chống hối lộ, trốn thuế và lậu thuế, lấy cắp tài
sản nhà nước, làm ăn gian dối, đánh cắp tình báo kinh tế];
19- Công tư hợp doanh và hợp tác xã nông nghiệp;
20- Chống phái hữu;
21- Đại Nhảy vọt ;
22- Hội nghị Lư Sơn [hội nghị mở rộng Bộ chính trị và hội
nghị lần 8 trung ương ĐCSTQ, cách chức Bộ trưởng Quốc phòng của Bành Đức Hoài];
23- Cắt đứt quan hệ với Liên Xô;
24- Chuẩn bị đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ;
25- Phát động cách mạng văn hoá;
26- Giúp Việt Nam chống Mỹ;
27- Xác định Lâm Bưu là người kế vị;
28- Tan băng quan hệ với Mỹ;
29- Nâng đỡ Nhóm Bốn Tên;
30- Đánh đổ Đặng Tiểu Bình;
31- Bố trí Hoa Quốc Phong làm người kế vị.
Tôi nghiên cứu kỹ 31 sự việc này, phát hiện thấy trong đó có
20 sự việc liên quan tới huỷ hoại tinh thần và đạo đức con người. Đến năm 1966,
cuối cùng Mao Trạch Đông phát động cuộc Cách mạng Văn hoá chưa từng có trong
lịch sử, làm cho kinh tế Trung Quốc đi tới bờ vực sụp đổ, càng làm cho phẩm
chất đạo đức của nhân dân toàn quốc hạ thấp xuống tới mức đáng sợ, nhà nước mấy
lần sa vào tình cảnh muôn đời không phục hồi được.
Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái gốc lớn mạnh của một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có thể không có nhưng tinh thần thì không thể không có.
Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái gốc lớn mạnh của một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có thể không có nhưng tinh thần thì không thể không có.
Cách đây ít lâu khi xuống sư đoàn 33 Không quân, tôi có đến
thăm trại tập trung Tra Tử Động. Nhiều liệt sĩ như Chị Giang [tên thân mật gọi
Giang Trúc Quân, nữ liệt sĩ cách mạng Trung Quốc, 1920-1949] đã hy sinh tại
đây. Hồi ấy nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã thành lập. Chị Giang đang ở
trong tù mà vẫn thêu một lá cờ đỏ năm sao. Chị chưa biết mẫu của cờ đỏ năm sao
như thế nào, cho nên đã thêu ngôi sao lớn nhất vào chính giữa lá cờ, 4 ngôi sao
nhỏ ở 4 góc. Khi bọn Quốc Dân Đảng chuẩn bị làm cuộc đại tàn sát tù nhân thì
Quân Giải phóng đã tiến tới gần Bạch Thị Dịch. Đội du kích Hoa Doanh Sơn bắt
được liên lạc với Quân đoàn 47. Đội du kích nói: Các đồng chí mau tiến quân đi,
trại tập trung Tra Tử Động sắp hành quyết các chính trị phạm. Nhưng Quân Giải phóng
cho rằng đội viên du kích Hoa Doanh Sơn là tên lừa đảo, có thể là bẫy kẻ địch
cài, cho nên họ không hành động. Kết quả là cuộc tàn sát bắt đầu. Các liệt sĩ
hiên ngang đi tới chỗ chết.
Có người nói, thật đáng tiếc, các liệt sĩ ấy đã không nhìn
thấy nước Trung Quốc Mới. Mục tiêu phấn đấu mà họ theo đuổi sắp được thực hiện
thế mà họ lại không được nhìn thấy.
Tôi bảo anh nhầm rồi. Nói thực lòng, họ vô cùng hạnh phúc.
Tín ngưỡng trong lòng họ sắp được thực hiện, chết vào lúc đó không phải là nỗi
đau mà là một niềm hạnh phúc. Những người còn sống sót mới thực sự đau khổ. Họ
nhìn thấy nước cộng hoà nhân dân được thành lập, sau đó là các phong trào chống
phái hữu, tam phản ngũ phản, “Cách mạng Văn hoá”, những người bị cái đảng mà
mình hiến dâng tính mạng hành hạ mình chết đi sống lại ấy mới là những người
đau khổ nhất. Chết, chết không được. Sống, sống không thành. Cuối cùng để mất
niềm tin và tín ngưỡng, chẳng khác gì cái thây ma biết đi.
Đảng viên cộng sản mất tín ngưỡng thì là cái gì? Hãy nhìn bọn
quan tham nhũng hiện nay thì khắc rõ. Bọn chúng tên nào cũng sợ chết, quan càng
to càng sợ chết. Thứ trưởng Bộ Công an Lý Kỷ Châu khi bị bắt còn hung hăng lắm.
Hắn nói: “Nếu tôi có vấn đề thì phải đem chém đầu một nửa Bộ Chính trị!” Đến
lúc chuẩn bị đưa đi xử bắn, hắn quỳ xuống van xin: “Xin cho tôi một con đường
sống.” ./.
Nguyễn Hải Hoành lược dịch và ghi chú trong
ngoặc [ ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét