2 tháng 6, 2015

LẬT LẠI VỤ ÁN NHÂN VĂN GIAI PHẨM

LẬT LẠI VỤ ÁN NHÂN VĂN GIAI PHẨM

TRỊNH XUÂN CHÂU

Nhà văn trưởng lão Tô Hoài, từng là Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn VN những năm có vụ Nhân Văn, có nói rằng: “(Theo Tô Hoài) đó thực chất là một vụ án chính trị, nhưng vì quàng vào một số nhà văn nên người ta cứ tưởng một vụ án văn chương. Nhân sai lầm ở cải cách ruộng đất và ta chuẩn bị cải tạo tư sản ở Hà Nội, hai tay Tây, một là Tổng Giám mục ở nhà thờ Hà Nội tên lÀ Dudley, hai là tay tùy viên văn học của Sứ quán Pháp tên là Durand Fischer, bèn xúi giục mấy ông đảng xã hội: Hoàng Văn Đức, Đỗ Đức Dục, Vũ Đình Hòe đòi ngang quyền với Đảng Lao Động. Fischer có liên hệ với Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Minh Đức (Trần Thiếu Bảo). Lúc này tư nhân ra báo không phải xin phép (hồi ấy ta vẫn còn theo chế độ của Pháp). Ta bắt ba người có dính đến Pháp là Đang, An và Bảo. Còn hai tay Tây thì trục xuất khỏi Việt Nam sau một tuần lễ. Còn Hoàng Văn Đức, Đỗ Đức Dục, Vũ Đình Hòe thì lặng lẽ cho thôi thứ cả. Bây giờ sửa sai thì cứ lặng lẽ kết nạp lại vào Hội Nhà Văn và tặng giải thưởng Nhà nước cho mấy ông Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm… Cho nên vụ án vẫn mù mờ chưa mấy ai hiểu rõ. Tổng chỉ huy chống Nhân văn là Hoàng Văn Hoan. Tố Hữu chỉ là người thừa hành. (Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh – 2008).


Đó là một nhân chứng đáng tin cậy. Và còn rất nhiều nhân chứng khác về vụ này, liên quan đến ông Trần Dần và thơ Trần Dần. Nhưng trước hết hãy đọc lại Nghị quyết của Đảng Cộng Sản lúc bấy giờ nói gì. Nghị quyết đó có đoạn: “Tình hình trên đây là miếng đất tốt cho những phần tử thù địch tiến hành những hoạt động phá hoại. Nhằm vào chỗ yếu của mặt trận văn nghệ, nhất là dựa vào sự mơ hồ về lập trường tư tưởng của số đông văn nghệ sĩ, những phần tư phá hoại đã tiếp tục hoạt động và tác hại một cách nghiêm trọng. Rõ ràng những phần tử chống chủ nghĩa xã hội, chống Đảng đã nhân chỗ sơ hở của ta mà tiếp tục tấn công ta, về mặt tư tưởng dưới hình thức văn nghệ. Sự hoạt động của những phần tử phá hoại trong giới văn nghệ là một hiện tượng hết sức nguy hiểm, một vấn đề cấp bách cần giải quyết…” (Nghị quyết của Bộ Chính Trị BCHTƯ Đảng Cộng sản VN - số 30 NQ/TƯ ngày 6-1-1958.

Ông Trường Chinh, trong báo cáo tại hội nghị TƯ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ 10-21-3-1958 nói: “Những người tuyên truyền những tư tưởng tư sản trên đây đã ngụy trang dưới những khẩu hiệu nịnh dân như “ủng hộ Đảng”, “ủng hộ chế độ”, “nhân đạo”, “nhân văn”, “dân chủ hóa Nhà nước”, “tự do sang tác”, “đả đảo bè phái”, “phản đối công thức”, “phản đối chủ nghĩa giáo điều”, “chống tả khuynh”... v.v… Tuần báo “Nhân Văn” cũng như trên những tập văn “Giai phẩm” và “Đất nước” thật không khác gì những “cơ quan tác động tinh thần” của bọn đế quốc và Ngô Đình Diệm ở miền Bắc. Dã tâm của bọn “Nhân Văn” là tưởng có thể dùng những cơ quan nói trên như bọn phản cách mạng Hunggari đã dung nhà xéc Pêtôphi để từ chỗ phê bình, đã kích lãnh đạo, tiến tới cổ động quần chúng ra đường biểu tình như ở Pôdơnam và Buđapét!. Ta không lấy làm lạ thấy các cơ quan tuyên truyền của Mỹ - Diệm nhiệt liệt ca ngợi “những hành động dũng cảm của bọn Nhân Văn”.

Sơ qua vài cứ liệu như thế để thấy thêm vụ án Nhân Văn là vụ án chính trị, có nhiều văn nghệ sĩ dính líu. Nghị quyết của Ban Chấp Hành Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam còn nói mạnh hơn: “Qua đấu tranh, mọi người đã nhận rõ nhóm “Nhân Văn – Giai phẩm” là một nhóm phá hoại, hoạt động hết sức nguy hiểm trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, nhằm chống lại Tổ quốc, nhân dân, chống lại chủ nghĩa xã hội, chống chế độ ta và Đảng ta. Cầm đầu nhóm đó là những tên “tác động tinh thần” lành nghề, Tơ-rốt-kít lâu năm, những tên phản cách mạng già đời hoặc đầu cơ cách mạng và phản bội, câu kết với một vài phần tử phản động trong giai cấp tư sản. Bọn chúng dựa vào môt số văn nghệ sĩ kháng chiến trở về, số người này từ khi về thành thị đã bị lối sống trụy lạc và tư tưởng phản động làm cho biến chất, từ chỗ sa đọa về đời sống, tư tưởng và nghệ thuật, họ đã rơi vào con đường chính trị phản cách mạng. Những hoạt động phá hoại của những bọn kể trên đã diễn ra một cách liên tục và có hệ thống trong văn nghệ và trong trường Đại học, suốt mấy năm nay” (Nghị quyết hội nghị, Hà Nội 4-6-1958, Nhà xuất bản Sự thật)

Ngày nay, sau 50 năm, với bao biến đổi, nhìn lại vấn đề, chúng ta có thể thấy ngôn từ và hành động thời ấy thật quá kiên quyết, cứng rắn. Nhưng kháng chiến, đánh giặc là kiên quyết và cứng rắn, không thể khác. Kỷ luật cũng khá nhẹ: Hoàng Cầm chỉ bị cảnh cáo và khai trừ ra khỏi Ban Chấp hành Hội Nhà Văn, Trần Dần, Lê Đạt chỉ bị khai trừ trong thời hạn 3 năm… Có người nói: so với việc Liên Xô, Trung Quốc làm, thì Việt Nam là “nhẹ tay” (thực ra thì việc khai trừ 3 năm lại biến thành 30 năm!)
Mấy chục năm nay, các cơ quan tuyên truyền thông tấn của miền Nam (khi trước), hải ngoại, phương Tây… cho trấn áp Nhân Văn là trấn áp tự do dân chủ. Nhưng hoàn cảnh lịch sử nhận thức lịch sử lúc ấy là thế, mà chưa thấy Đảng ra nghị quyết vào “xét lại” cả. Việc tặng thưởng giải Nhà Nước cho một số nhà văn đã tham gia Nhân văn, có lẽ là xuất phát từ thiện ý muốn trong tình hình đổi mới, sau thắng lợi của chiến tranh chống Mỹ, mà “hòa giải”, giữa những người dù sao cũng một thời cùng một chiến hào, chứ chắc Chủ Tịch Nước không có ý “sám hối” mà ký lệnh trao giải, như mạng Talawas nói.

Còn về nhà thơ Trần Dần, thì trong cuộc đó, ông đã nói những lời như sau: “Tất cả cái gọi là sự nghiệp chống công thức, tìm cái mới của tôi chỉ là sự nghiệp chống Đảng ngày càng trầm trọng và khôn khéo hơn, như thế mà thôi. Con đường tôi đã đi là đi từ những bất mãn cá nhân đến chống Đảng, ngày càng trầm trọng.
Đi từ chống đối hung hăng đến chống đối tinh vi.
… Tất cả những chuỗi gọi là sáng tác “mới”, “có tư tưởng” với lại “chống công thức” của tôi đó chỉ là những hành động phá hoại, một chuỗi những tội lỗi chất cao mãi lên… Tôi đã “giả danh cách mạng”, lừa mình dối người là tôi đứng ở ở mũi nhọn đấu tranh chống chủ nghĩa Sta-lin, nhưng sự thực tôi đã đứng ở mũi nhọn của chủ nghĩa tư bản, chống lại chủ nghĩa xã hội đã bắt đầu xây dựng ở miền Bắc từ 3 năm nay. Tôi đã đứng ở hang ngũ bọn xét lại tơ rốt kít, bọn chống Cộng, bọn gián điệp, bọn phá hoại các cỡ, và đằng sau hết là sự thật giẫm của bọn đế quốc trùm sỏ chúng đã chăng khắp nơi một cái lưới, chằng chịt rất tinh vi những tư tưởng và âm mưu phản động. Suốt thời gian qua, tôi đã múa may trong sự điều khiển của các đường dây tư tưởng địch đó, múa may tợn tạo, khác gì con rối phản cách mạng lầm tưởng mình là một con người. Trong 3 năm qua, tôi đã sống hèn nhát đau khổ và hằn học. Một chuỗi ngày u mê nó tiêu ma sức lực vật chất và tinh thần. Tư tưởng thù địch phá rỗng tâm hồn tôi”
(Văn học, số 1, ngày 25-5-1958
Văn Nghệ, số 12, tháng 5 – 1958)

Ngày nay, chúng ta cảm thấy những lời lẽ ấy là những lời quá nghiêm khắc, “đao to búa lớn”, nhưng hồi ấy, đó là thường. Nhưng nhìn lại việc trao giải, và hàm ý trao giải cho “Trần Dần – Thơ”, ta buộc lòng phải truy lại trước sau, xem đâu là phải, trái, đứng đắn hoặc sai lầm, rồi nhìn vào cái sâu xa của hàm ý muốn lợi dụng vụ Nhân văn một lần nữa của một số thế lực trong ngoài…


Nguồn: Tuần báo Văn Nghệ TPHCM




Hữu Loan nhớ lại vụ án Nhân văn – Giai phẩm cách đây 50 năm

Đăng ngày: 23:24 27-02-2010
Thư mục: Chân dung nhà văn
Đôi nét vê Hữu Loan :

          Ông tên là Nguyễn Văn Dao, Sắt Đỏ, Tốt Đỏ, Binh Nhì ... Tên chợ là Ông già Vườn Lồi (Phù Viên Lỗi). Sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Vân Hoàn, Nga Sơn, Thanh Hóa. Từ 1936 đến 1942 làm cách mạng trong phong trào học sinh và nhà trường. Từ 1943 đến 1945 về đi cày và đánh cá, làm Việt Minh và làm khởi nghĩa huyện nhà. Cùng năm làm Ủy ban Lâm thời tỉnh phụ trách 4 ty Giáo dục, Thông tin, Công chính và Thương chính. Chán lại về đi cày và đánh cá nuôi bố mẹ già. Từ nửa năm 1946 đến 1951, làm chủ bút báo Chiến sĩ Quân khu IV ở Huế. Gặp Nguyễn Sơn, ủng hộ đường lối ưu tiên với văn nghệ sĩ. Khi Nguyễn Sơn bị đình chỉ công tác, trả cho Trung Quốc, đường lối Nguyễn Sơn bị Lê Chưởng và Hoàng Minh Thi phản đối, Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại không được, lại về đi cày cho đến 1954 tiếp quản thủ đô lại ra làm biên tập cho báo Văn nghệ, vào làm hội viên Hội Nhà văn. Sau tham gia Nhân văn rồi bỏ về quê đi cày, đi thồ, từ 1958



HỮU LOAN : TỰ PHỎNG VẤN

Phóng viên: Từ mấy chục năm nay trong dân gian và trong văn học thường hay nói đến "Nhân văn-Giai phẩm", đến "vụ án Nhân văn-Giai phẩm" như là một chuyện gì ghê gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những tên đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha được, những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta. Nhưng trong thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân dân truyền tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không xong, càng ngày càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước lại cũng đã tuyên bố phục hồi cho họ, in lại thơ, lại nhạc. Như thế là trước kia không phải họ sai mà nhà nước sai hay sao? Nếu nhà nước sai thì làm gì còn có "vụ án Nhân văn"? Có sai mới có án, mà đã không thì cái gọi là "vụ án Nhân văn" là một vụ oan. Nhưng mới gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố "vụ Nhân văn" là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ người dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều ... Họ thắc mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không giải thích nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là người trong cuộc, xin ông giảng lại cho: Thế nào là "Nhân văn"? Thế nào là "Vụ án Nhân văn"?

Hữu Loan: Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý kiến đầy đủ trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh huấn Nhân văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc thì hơn.

Phóng viên: Bác ngại sao?

Hữu Loan: Cũng ngại chứ!

Phóng viên: Vì sao vậy?

Hữu Loan: Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới đây thấy hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên Ngọc chỉ cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị kết tội là sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi hết cuộc họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm, để bàn cách đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí đều dám lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc. Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những bạn tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào Hội Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua nhà tôi cũng vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ đều đổ cho là tại chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế độ là chế độ thì người cũng phải là người chứ. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Đấy là bè bạn, là người ngoài. Ruột thịt đối với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều. Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi: "Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào làng, rào giếng. " Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi: "Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4 ty còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào được nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra làm giáo viên, con cháu xin thì ông bảo: Chúng mày rồi hẵng.' Ông chỉ toàn khuyên các cháu đi bộ đội. Nghe ông, bốn đứa xung phong đi, giờ còn có một đứa về ... Hồi Việt Minh còn đang bí mật, ông đứng ra lãnh gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông phát cho dân trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào cũng hụt, có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa bột, dầu cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước, đến lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe con chứ khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong khi những người không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của ông để về vênh váo với làng nước. Ông bảo ông làm cách mạng, để cho cả làng được đi học. Khi cách mạng thành công thì thằng con ông thi đại học đậu thừa điểm đi nước ngoài họ không cho đi ngay cả trong nước và chúng đã thay vào chỗ con ông một tên Cường không đậu, tên na ná với tên con ông là Cương. " Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi: "Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu mực ấy đem mà vứt cho nó ăn. Chả đứa nào nó thương ông. Ông tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu ..." Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng: "Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay ô tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực chứ chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt bán tự do cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải đến rất sớm mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy, Ủy ban v.v... được mua trước, đến mình thì hết phần..."

Phóng viên: Như vậy là bác chán không muốn nói đến chuyện "Nhân văn-Giai phẩm" nữa?

Hữu Loan: Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh cho họ, bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ chửi, họ oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là đúng, là gương để cho họ noi theo.

Phóng viên: Xưa nay bác vẫn là người nói thẳng, nói thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không lý nào bác lại sợ, lại hèn?

Hữu Loan: Anh kích tôi đấy phỏng? Tôi là người không bị động bao giờ.

Phóng viên: Cháu không dám hỗn thế đâu, nhưng đây là một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi cũng phải đưa ra ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc, bác giúp cho bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các cháu có thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai đoạn xã hội hiện nay...

Hữu Loan: Thực ra nếu bên Liên Xô không có Khrushchev lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện "Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" và bên ta hưởng ứng tức thời bằng phong trào mang tên dịch lại nhãn hiệu Trung Quốc "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng". Tên nôm na của ta là "Chống sùng bái cá nhân". Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có nhóm thành ngữ "ơn Đảng ơn Bác" đứng đầu. Thí dụ: "Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?" "Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay." "Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì..." Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: "Ơn Đảng ơn Chính phủ": "Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?" "Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng lợn..." Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ... Cái khao khát, cái đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm áo. Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng, bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân cũng đã tin hơn trời: "Nhất đội nhì trời". Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi phát động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay đổi câu "Ơn Bác ơn Đảng" và kiểm điểm những việc làm trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan. Khẩu hiệu là "Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng Đảng!" Không những nói mồm mà còn viết lên các báo. Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn, Giai phẩm của chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính. Bài thơ "Màu tím hoa sim"  của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là Trăm hoa số này có thơ "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan. Mấy tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ "Hoa lúa" , 22 anh em nhà báo nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân dân xin chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với Nguyễn Bính, Bính đến xin ngày bài "Hoa lúa" về đăng Trăm hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng Văn nghệ chỉ được 7 đồng. Anh bảo với vợ tôi: "Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một quyển sách hiện nay không bằng tiền của một bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên tài: "Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!" Từ ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không phanh, không thắng... Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in sách đen sách trắng vừa rồi.

Phóng viên: Xin bác cho biết lại về vụ "Nhân văn".

Hữu Loan: "Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng Đảng". Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những "Ban Giải oan" đã thành lập để vào trong các nhà tù giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan.... Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như "đống xương vô định". Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Đảng, phản dân nhất của Nhân văn là bài "Vấn đề pháp trị" do Nguyễn Hữu Đang viết .Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp đình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử... Bài báo kêu gọi cần phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng trước pháp luật... Sau hơn ba mươi năm do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn Hữu Đang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn đề sống còn của chế độ). Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5 - 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được? Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là "Vấn đề Trần Dần"  đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa Nguyễn Sáng vẽ Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ! Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. [6] Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc. Một người nhà báo hỏi ông: "Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận." Ông Trương Chinh sửng sốt: "Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi." Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực  xã hội chủ nghĩa này được học tập ráo riết trong quân đội, trung tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết về "con đường đi lên" là Tổng cục Chính trị lúc bấy giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông Tố Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác... Có lẽ quyết liệt nhất là Trần Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa đứt đến ven thì đã kịp thời chặn lại. Vì thế mà có bài "Vấn đề Trần Dần" trong Nhân văn số 1 như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những người đã viết "Vạn ngôn thư", "Thất trảm sớ"... Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Đang, vấn đề văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả, việc giả, hàng giả... Những người thấy trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen. Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân tộc. Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án gọi là "án Nhân văn". Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: "Nói thật, nói thẳng, nói hết để xây dựng Đảng", và chỉ đấu tranh cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã lý tưởng rồi. Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân văn ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ cũng đang bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng. Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án. Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục gửi về... Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện, sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng. Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội rất nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những rối loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng chuyện theo bài bản, những ông trên không sát cũng phải tin như thật. Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy. Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa. Dựa vào Hội Truyền bá quốc ngữ, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động cho mặt trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức vào mặt trận. Khi chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang là trưởng ban tổ chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Đang là Tổng thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn nhận bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo: "Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một mình một Đảng." Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn nghệ. Mãi đến gặp phong trào "Trăm hoa", Đảng phát động cho viết báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới ra làm Nhân văn. Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô đề phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều động một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong các đơn vị ấy nói lại tôi mới biết. Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp học sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là thằng Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị lên Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Đang. Tôi là người duy nhất đã ký như sau: "Khi Nguyễn Hữu Đang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Đang là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Đang tôi chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan" Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi được 7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền Quốc tế nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không giải oan cho Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai gào "Vụ Nhân văn là một vụ án chính trị!". Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm hiểu lịch sử thì lại bảo "Đó là vụ án đã qua, bọn Nhân văn đã nhận tội không nên nhắc đến nữa!". Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí bọn vua chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt. Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình được mãi không, dù là những bạo chúa, những nhà độc tài cỡ quốc tế? Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này: Phùng Cung, tác giả truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh" [7] : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha. Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang. Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ mạt. Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông xây mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ 1954 đến 1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà ưu giá 30.000đ (bằng 150 cây vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà nào cũng rất đông người làm mà chả được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố bao nhiêu rơm cũng ôm...
 Lê Phương Nga
Nguồn:http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=26049




Nhân văn giai phẩm - Trần Dần - Lang thang net

Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ…


Sơ lượt về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm
http://74.125.153.132/search?q=cache:ZBLIqilKOqkJ:huongduongtxd.com/nhanvangiaipham.pdf+%22v%E1%BB%A5+nh%C3%A2n+v%C4%83n+giai+ph%E1%BA%A9m%27&cd=17&hl=vi&ct=clnk&gl=vn

Nhật Tiến
Phong trào Nhân văn-Giai phẩm và Giải thưởng Nhà nước: Nhìn dưới góc người đọc
Nguồn: Talawas
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.gnynjnf.bet/gnynQO/fubjSvyr.cuc=3ferf=3d9505=26eo=3d0401

Trích:
Bất chợt, ngày 13 tháng Hai năm 2007 vừa qua, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ra quyết định tặng “Giải thưởng Nhà nước cho các tác giả có tác phẩm hay, công trình văn học nghệ thuật giá trị cao, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc”.

Bốn người thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm nằm trong danh sách được giải là
Trần Dần, Phùng Quán, Lê Ðạt và Hoàng Cầm. Hai ông Trần Dần và Phùng Quán thì đã mất, còn lại hai ông kia thì đều tỏ ra hoan hỉ nhận giải, trị giá một bằng khen và 60 triệu đồng tiền Việt.


Phiếm luận về Nhân văn giai phẩm
Hoàng Hải Thuỷ
Nguồn: O Gió
http://www.gio-o.com/CongTuHaDongNhanVanGiaiPham2.html

Xét lại Nhân Văn Giai Phẩm (1958), phiếm luận của nhà phóng tác nổi tiếng Hoàng Hải Thủy, nhân dịp đầu năm 2007 nhà cầm quyền Hà Nội phong tặng tước vị lại cho một số nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm

==============
Giai phẩm mùa xuân 1956 và nhất định thắng
Nguồn: Talawas
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.gnynjnf.bet/gnynQO/fhpur.cuc=3ferf=3d7351=26eo=3d07

Trích:
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi

không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ
==============
Hoài Thanh
Vạch tính chất phản động của bài “Nhất định thắng” của Trần Dần
Nguồn: Talawas
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.gnynjnf.bet/gnynQO/fubjSvyr.cuc=3ferf=3d13624=26eo=3d0401

Trích:
Miền Bắc trong bài Trần Dần hoàn toàn không đúng với miền Bắc thực của chúng ta. Mới xem lướt qua, có người tưởng lầm là Trần Dần chỉ nói đến những khó khăn. Nhưng xem lại thì thấy rõ Trần Dần đã xuyên tạc và vu khống miền Bắc. Trần Dần đã tạo ra một miền Bắc đen tối và ngột ngạt. Bốn lần Trần Dần day đi day lại cái hình ảnh mưa rơi trên cờ đỏ, cố gây một ấn tượng âm u đối với thực tế tươi sáng của chúng ta. Phải chăng vì một thứ phiền muộn vẩn vơ nào đây mà Trần Dần nhìn cảnh vui lại hóa ra cảnh buồn? Nhưng nếu chỉ có thế thì cũng chỉ là một sự sai lầm bình thường như nhiều sai lầm khác trong các tác phẩm văn nghệ của ta. Đối với những sai lầm ấy, người đọc chỉ phê bình và thường là phê bình một cách thân ái.

Trái lại bài của Trần Dần đã làm cho hầu hết mọi người đọc đều phẫn nộ. Có đồng chí bộ đội đọc đến giận quá, xé ngay. Hội Văn nghệ Việt Nam có tổ chức một buổi họp để nhận định về bài này. Không khí buổi họp rất sôi nổi, anh chị em văn nghệ miền Bắc, miền Nam, vùng tự do cũ và vùng mới giải phóng, ai cũng muốn được phát biểu ý kiến để nói lên sự phẫn nộ của mình.

==============
Và Thư ngỏ về việc tập TRẦN DẦN - THƠ bị ngưng phát hành
Nguồn: Diễn đàn
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.qvraqna.bet/ivrg-anz/guh-atb-ivrp-gnc-gena-qna-gub-ov-athat-cung-unau/

Trích:
Chiều 5/3/2008, GS Nguyễn Huệ Chi, nhà thơ Dương Tường và nhà thơ Hoàng Hưng đã thay mặt 134 người ký tên đợt đầu vào Thư ngỏ về việc tập sách Trần Dần – Thơ bị ngưng phát hành (viết tắt là Thư ngỏ) đem Thư ngỏ tới trao cho ông Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông CHXHCNVN (người nhận thư là ông Mai Ánh Hồng, Thư ký Bộ trưởng), ông Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội CHXHCNVN (người nhận thư là GSTS Nguyễn Minh Thuyết, Phó chủ nhiệm Ủy ban), ông Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (người nhận thư là bà Lê Thị Hải, Phó Văn phòng Hội). Thư gửi ông Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội đã được GSTS Nguyễn Minh Thuyết nhận chuyển giúp. Thư gửi ông Tổng Thanh tra Chính phủ CHXNCNVN đã được gửi theo đường Bưu điện.
==============
Thư ngỏ phản đối vụ thơ Trần Dần
Nguồn: BBC
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/03/080304_trandan_letter.shtml

==============
Nhìn lại sự thật về vụ án nhân văn giai phẩm
Huy Vân
Một tâm hồn đồi truỵ: Trần Dần
Nguồn: Talawas
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.gnynjnf.bet/gnynQO/fubjSvyr.cuc=3ferf=3d9020=26eo=3d0401

Trích:
"Việc phục hồi cho các văn nghệ sĩ trí thức từng tham gia phong trào Nhân văn-Giai phẩm cũng như vinh danh sự nghiệp của họ chỉ thực sự có ý nghĩa cùng với việc thông tin đầy đủ và công khai về chính giai đoạn xảy ra tấn bi kịch của họ 50 năm trước. Nhân 10 năm ngày mất của Trần Dần (17.1.1997-17.1.2007), chúng tôi chọn đăng lại một bài viết về ông trên báo Nhân dân năm 1958, giữa thời điểm “Vụ án Nhân văn-Giai phẩm” vào hồi tuyên án, và một số đoạn về Trần Dần trong tác phẩm chưa được dịch ra tiếng Việt, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam (Trăm hoa đua nở trong màn đêm nước Việt), của nhà nghiên cứu người Pháp Georges Boudarel. "

==============
Hữu Mai
Để rõ thêm chân tướng phản động của Trần Dần
Nguồn: Talawas
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.gnynjnf.bet/gnynQO/fubjSvyr.cuc=3ferf=3d9045=26eo=3d0401

Trích:
Đến nay, Trần Dần đã được lột mặt nạ trước quần chúng. Nhưng cũng còn một số bạn, chưa từng gần gũi Trần Dần, thắc mắc: “Sao một quân nhân, hơn nữa một đảng viên, đã được rèn luyện qua 10 năm kháng chiến, có thể trở nên xấu xa như thế?”

Biết Trần Dần từ lâu, tôi xin nói điều đó.

==============
Đỗ Nhuận
Bộ mặt thực của Trần Dần trong nhóm phá hoại Nhân văn–Giai phẩm
Nguồn: Talawas
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.gnynjnf.bet/gnynQO/fubjSvyr.cuc=3ferf=3d9459=26eo=3d0401

Trích:
Lối văn thơ của Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán trong Giai phẩm–Nhân văn tôi có thể ví như một lối văn cao bồi, đao to búa lớn, chụp mũ vào lãnh đạo khiến cho một số người lầm tưởng là họ có tài. Không ai khen cái tài nói lớn, nhưng nói khoác, nói vu, nói phá hoại mà chỉ khen cái tài nói nhỏ nhưng nói thật.

Trong lớp học, Trần Dần chỉ mới nhìn thấy tội lỗi, chống Đảng của mình một phần nào. Đối với bản thân, Trần Dần và một số người gây ra chuyện Giai phẩm–Nhân văn, họ đã làm cái việc “kiếm củi mười năm, thiêu một giờ”.
==============
Huyền Kiêu
“Con người Trần Dần” - một thủ đoạn chính trị bất lương của nhóm “Nhân văn”
Nguồn: Talawas
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.gnynjnf.bet/gnynQO/fubjSvyr.cuc=3ferf=3d9585=26eo=3d0401

Trích:
Cuối năm 1956, trong lúc tình hình cách mạng gặp khó khăn, thì một số phần tử xấu trong giới trí thức văn nghệ, tưởng rằng thời cơ “làm ăn béo bở” đã đến, vội vã dương lá cờ rách Nhân văn nhảy lên võ đài, khua môi múa mỏ, với dã tâm, bóp méo, xuyên tạc những khuyết điểm của ta về văn nghệ, tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ, và từ địa hạt văn nghệ, lan sang các mặt văn hóa, xã hội, chính trị, bôi xấu, vu cáo toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng, hòng cản trở bước tiến lên xã hội chủ nghĩa của miền Bắc nước ta.

Nói đến những phần tử Nhân văn có đồng chí đã dùng một hình ảnh rất đúng, là một lũ vắt đói máu đánh hơi thấy bước chân người, tua tủa ngóc đầu dậy, hi vọng sẽ chiếm lại quyền được tự do hưởng cái khoái lạc hút máu xa xưa. Trong những mũi nhọn mà bọn Nhân văn chĩa vào sau lưng Đảng ta, “Con người Trần Dần” – cái gọi là “hồi ký của Hoàng Cầm” – là một mũi tên vô cùng thâm độc.

==============
Võ Hồng Cương: Bọn phản bội Trần Dần – Hoàng Cầm – Tử Phác
Nguồn: Talawas
http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy2.cgi/010110A/uggc:/=2fjjj.gnynjnf.bet/=3fc=3d5678

Trích:
"Từ khi Nhân văn ra đời, bài “Con người Trần Dần” đã gây nên một vài dư luận hiểu lầm về quân đội ta. Nhưng lúc đó chủ trương của trên chỉ cho phép Cục Tuyên huấn phát biểu một cách đại cương nhằm mở đường cho Trần Dần và những người khác hối cải. Từ đó đến nay, Trần Dần và bè nhóm vẫn không hối cải, lại tiếp tục phá hoại, nên chúng tôi thấy cần phải nói lên một phần sự thật về bọn Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác để chúng ta cùng thấy rằng chính sách của ta đối với họ trước sau đều rất khoan hồng và bọn họ đã tỏ rõ ra là một bọn phản bội, một bọn phá hoại có hệ thống, để thấy rằng đó không phải chỉ là những người có tư tưởng văn nghệ sai lầm mà còn rõ ràng là bọn người có âm mưu chống đối sâu sắc với chế độ ta, với nhân dân và quân đội ta."
==============
Phản hồi

Phùng Tường Vân “nghe nói cái anh ký giả viết bài tường thuật này – Hồng Cương – sau đó bị “dũa” nặng lắm vì có kẻ “thọt” rằng anh ta núp dưới cái nhãn tường thuật để gián tiếp chửi Đảng, chửi lãnh đạo”.

– Xin thưa, nếu không phải là bạn nói diễu chơi chơi thì nên biết thêm Hồng Cương này là ai. Ông Võ Hồng Cương, khi viết bài này, là sĩ quan cao cấp trong cơ quan tuyên huấn Q.Đ.N.D.V.N. Khoảng sau thời gian đánh xong N.V.- G.P., ông ta được cử sang Bộ Văn hóa và Trung ương Hội Liên hiệp V.H.N.T.V.N. tiếp tục làm công tác lãnh đạo cho tới lúc về hưu.

Có thể nói khá chắc chắn là ông ta đã không hề bị cấp trên trách cứ gì về bài viết này; hơn thế viết bài này còn là nhiệm vụ của ông ta. Có điều là những hành động và lời lẽ của những Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác mà (Võ) Hồng Cương dẫn ra trong bài này, có lẽ không do ông ta bịa ra cho các nạn nhân, trái lại, ông ta đã lấy các dẫn chứng đó từ những giấy tờ, hồ sơ mà đến nay, nếu còn cũng chưa hề được công khai hóa.




Mãi đến thập niên bảy mươi của thế kỷ trước tôi mới được đọc thơ Hoàng Cầm qua tập “Tài liệu tham khảo văn học Việt Nam hiện đại” của Trường Đại học sư phạm Hà Nội khi tôi là sinh viên. Trước đó, thời học sinh phổ thông tôi chỉ nghe mang máng Hoàng Cầm có bài “Bên kia sông Đuống”, nhưng không biết nó thế nào.

Nhà thơ Đinh Quang Tốn
Là sinh viên, cái tuổi sôi nổi bồng bột đáng yêu nhất, tôi không hề mặc cảm với Hoàng Cầm, các bạn tôi cũng vậy. Chúng tôi yêu ông vì thơ ông hay, ông đã từng lặn lội với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từng làm chính trị viên trong quân đội, lúc nào đó ông có sai lầm, cũng là chuyện thường, đời người không ai “nắm tay suốt ngày đến sáng”.
Phải khẳng định rằng “Bên kia sông Đuống” không chỉ là một bài thơ hay của thơ kháng chiến chống Pháp, mà còn là một bài thơ hay của thơ Việt Nam hiện đại, của thơ Việt Nam nói chung. Những bài thơ hay có sức sống vượt qua mọi thời đại, không phụ thuộc vào đề tài và hoàn cảnh ra đời. Nó không hề cũ, vì cái đẹp là của muôn đời. Thơ chống Pháp và thơ chống Mỹ có nhiều bài như vậy.
Hào quang thơ chống Pháp của Hoàng Cầm kéo khá dài, cả khi ông không đăng thơ và khi ông đăng những bài thơ không được hay như trước. Đó là tình cảm tự nhiên của người đời mà ông xứng đáng được hưởng, vì ông đã kết tinh tâm hồn mình thành ngọc dâng tặng mọi người. Ai cũng chỉ có một thời xuân sắc. Tám mươi tuổi vẫn còn như thiếu nữ, nghe đâu lịch sử nhân loại cũng chỉ có một hai người.
Nhưng ngoài những qui luật thông thường, văn học nghệ thuật cũng như cuộc sống còn những qui luật khác, khó lý giải đến tận cùng. Thơ Hoàng Cầm mấy chục năm qua sống trong bạn đọc có một phần ít nhiều như huyền thoại, mà nhiều nhà thơ có những bài thơ hay không kém lại không có được. Tôi đã gặp nhiều người không hiểu thơ Hoàng Cầm, thậm chí không biết thơ Hoàng Cầm một bài nào ngoài tên ông và tên bài thơ tiêu biểu nhất của ông, vẫn tỏ lòng tôn kính, hết lời ca ngợi khi nhắc đến ông một cách chân thành.
Giai đoạn đầu của thơ Hoàng Cầm (1942-1956) có các bài thơ: “Một mình” (1942), “Gặp lại” (1942), “Nếu anh còn trẻ” (1943), “Tâm sự đêm giao thừa” (1948), “Bên kia sông đuống” (1948) và “Tiếng hát Quan họ” (1956). Tất cả những bài thơ này đều dễ hiểu như thơ của các nhà thơ khác. Trong đó tiêu biểu là bài “Bên kia sông Đuống” khá dài (135 câu) vừa hay mà dễ hiểu. “Bên kia sông Đuống” vừa tình cảm vừa trí tuệ theo cái hay cổ điển của thơ Việt Nam. Tình cảm ở đây vừa tha thiết vừa tự nhiên, cảnh quê hương dân dã hiện lên chân thật gần gũi, ý tưởng lớn của cuộc kháng chiến được gửi gắm qua những hình ảnh quen thuộc, cách diễn đạt giản dị.
Đến năm 1959 bắt đầu một giai đoạn mới của thơ Hoàng Cầm, tiêu biểu là các bài: “Cỏ Bồng Thi”, “Cây tam cúc”, “Lá Diêu Bông”, “Nước sông Thương”, “Gió lông ngỗng”… Thơ Hoàng Cầm bắt đầu khó hiểu. Sự khó hiểu này kéo dài suốt mấy chục năm, qua từng bài thơ, đến tận bây giờ .
Như vậy, sự khó hiểu của thơ Hoàng Cầm không phải là sự khó hiểu tự nhiên mà là sự khó hiểu cố ý, hay nói cách khác là do một quan niệm nghệ thuật của tác giả. Gần đây, trong một bài viết, ông Nguyễn Trần Bạt có lý giải, trong hoàn cảnh lúc đó tác giả đã phải thay đổi để tiếp cận độc giả. Có thể như vậy chăng? Trong sự thay đổi này có cả cái được và cái mất. Ví dụ, trong bài “Nước sông Thương” tác giả viết :
Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương
Mắt tròn cối xay
Không bao giờ được thấy sao mai
Rồi chị bảo em quên
Tranh tố nữ long hồ gián nhấm
Mất chân đi
Má đội tổ tò vò
Cuốn chiếu xa rồi thơ thẩn vách chiêm bao”
Vừa đọc vừa suy luận thì cũng có thể hiểu được. Toàn bộ thơ Hoàng Cầm từ 1959 trở đi là như thế. Nó không thuộc trường phái Xuân Thu Nhã Tập, cũng không bí hiểm như thơ Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng và một số tác giả “hiện đại” khác.
Thơ Hoàng Cầm chỉ khó hiểu thôi chứ không bí hiểm. Đọc thơ ông thấy ông lao động thơ khá nghiêm túc. Ví dụ, ba câu đầu bài “Nước sông Thương” ở trên, hình như giữa ba câu này còn có những câu khác, nhưng tác giả đã xóa bỏ đi để thơ hàm súc hơn, nhưng có thể do xóa nhiều (hoặc bỏ cách quãng nhiều trong diễn đạt tình cảm) mà các câu thơ rời nhau, gây cảm giác hụt hẫng. Ở khổ thứ hai: “Tranh tố nữ long hồ dán nhấm / Mất chân đi / Má đội tổ tò vò” thì trong từng câu thơ cũng có cảm giác thiếu hụt như vậy. Vì sao lại “Má đội tổ tò vò”. Có thể thiếu một vài từ nào đó. Phải chăng “Má (tố nữ) đội tổ tò vò” thì mới hiểu được? Hầu hết thơ năm mươi năm gần đây của Hoàng Cầm đều có phong cách như vậy, lao động quá nghiêm túc, quá cẩn thận trên từng câu từng chữ dẫn đến cô đọng quá mức gây hẫng hụt, thiếu cả những câu phụ cần có, do đó gây khó hiểu. Ví dụ những câu: “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng” (Lá Diêu Bông);“Lông ngỗng trải bờ lau/ Sông Cầu xuôi bến Hát/ Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn” (Gió lông ngỗng);“Ta lên xanh chỏm tóc/ đã sênh sang miệng bát đàn/ Cười nở gạo Văn Giang” (Nhịp điệu Hồng Châu) v.v
Nghệ thuật bao giờ cũng phải đạt đến mức vừa đủ, già một chút là thừa, non một chút là thiếu. Như chiếc kiềng chỉ ba chân, nhiều hơn sẽ gây khó chịu, nếu hai chân sẽ chông chênh dễ đổ. So sánh, tôi thấy câu và chữ trong thơ Hoàng Cầm như chiếc kiềng hai chân ấy. Nhưng thơ Hoàng Cầm không đổ, cứ chông chênh trước mắt mọi người. Đứng được như vậy phải nói là tài, vì ông có những cái chân mờ khác. Một trong những chân mờ ấy là ngôn ngữ của thơ ông. Như đã nói ở trên, ông đã bỏ đi tất cả những từ thừa, những câu thừa. Ngoài ra, ông còn biết đánh bóng làm đẹp những từ còn lại, biết cách xếp đặt chúng làm cho câu thơ ông đọc rất sang. Cả giai đoạn dài mấychục năm về sau, đọc thơ Hoàng Cầm không nên đi tìm những tư tưởng cao siêu, hay những tình cảm đặc biệt, mà người đọc bị thu hút bởi cái “sang” của thơ ông:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
( Lá diêu bông)
Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương
Đêm phương Bắc khi sao hôm nhẹ khóc
Hương tím em về đậu giữa trang thơ”
(Ngẩn ngơ)
Chị đi một chuyến chơi xanh cỏ
Quay bánh linh xa miết triệu vòng
(Chị Em xanh)
Sơn ca chắt nắng
Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng
(Đếm nắng)
v.v…
Một cái chân mờ khác, đấy là cách làm điệu nghệ sĩ của ông thu hút được tình cảm của người đọc. Chẳng hạn chùm thơ đêm của ông: “Đêm Thổ”, “Đêm Kim”, “Đêm Thủy”, “Đêm Hỏa”, “Đêm Mộc”, mở đầu đều bằng việc trở về kinh Bắc, theo thứ tự của các bài trên:
- Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
- Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc
- Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt
- Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa
- Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng
v.v…
Hoặc hai bài “Tinh anh thể phách” và “Thể Phách tinh anh” có hai câu đầu láy nhau khá điệu: “Em trao vẹn cả tâm hồn/ Là giam tôi chật vòng tròn cung trăng”. Và: “Em trao vẹn cả thân mình/ Là giấm ớt tía đỏ bình men quê”.
Một cái chân mờ khác là những câu thơ đa tình của ông cứ như đùa như trêu mọi người, nhưng vẫn giữ được độ thanh của nó: “Tàn canh đứng…/ Rạng Đông vừa lọt/ Cửa khép hờ toang toác gió thu” (Bênh); “Ấp vú mình trần con dế trũi/ Cành tre trải áo nép thân hình” (Tắm đêm); “Em trao mình thủa khát khao/ Dấn thân lạc lối mưa rào hoàng hôn” (Thể phách tinh anh).
v.v…
Chất Quan Họ cũng là một cái chống mờ trong thơ Hoàng Cầm: “Nhớ mưa Thuận Thành/ Long lanh mắt ướt/ Là mưa ái phi/ Tơ tằm óng chuốt/ Ngón tay trắng mướt/ Nâng bồng Thiên Thai” (Mưa Thuận Thành). Nó đi vào lòng người bằng chất ngọt ngào mê đắm.
Nhìn một cách tổng quát, thơ Hoàng Cầm không có bài nào đến gần được “Bên kia sông Đuống” của chính ông…Cứ tưởng như “Bên kia sông Đuống” và những bài thơ khác không phải cùng một người sinh ra. Những bài thơ khác, mỗi bài mỗi vẻ cũng lấp lánh sơn son thiếp vàng, nhưng không phải là vàng ròng như “Bên kia sông Đuống”.
Có người nói: Hoàng Cầm đã được khoác tấm cẩm bào lộng lẫy quá rộng! Điều đó còn phải bàn. Nhưng tấm cẩm bào ấy đâu phải do ông tự khoác hay một người nào đó khoác cho ông? Tất nhiên, ông khoác được tấm cẩm bào ấy trong nhiều năm mà không bị rơi thì ngoài cái cốt của thơ ông ra mà chúng ta nhìn thấy, thơ ông tất phải có những cái chống mờ khác độn giữa cốt và áo như đã nói ở trên. Vấn đề là những cái chống mờ ấy có giữ mãi được tấm áo ông hiện khoác không? Không ai có thể khẳng định. Bởi vì trong lịch sử văn học nghệ thuật, có những tác phẩm tưởng chừng kiên cố và vững chắc thì lại không trụ được với thời gian, thế mà có tác phẩm mỏng manh chông chênh thì gió bão lại không làm gì được, bởi đó là cái mỏng manh của một chất đặc biệt, có cấu trúc đặc biệt. Không biết thơ Hoàng Cầm có thuộc loại đó không?






VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
Nhân Văn Giai Phẩm Phần I : Tìm hiểu phong trào
  Thụy Khuê
Bài đăng ngày 12/05/2009 Cập nhật lần cuối ngày  05/12/2009 13:42 TU

Bìa hai số tạp chí Giai Phẩm có đăng bài viết của các cột trụ trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ, những gì chúng ta góp nhặt được về những con người như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Phan Khôi, Thụy An, Trương Tửu... qua những văn bản do chính họ viết ra, hoặc vài ba dòng hồi ký của người này người kia, cũng chỉ là phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại nhật ký, hồi ký đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu.

Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt tháng 6 năm 1958.
Hai nguồn tư liệu sớm nhất về Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (THĐNTĐB) của Hoàng Văn Chí do Mặt Trận Tự Do Văn Hoá in ở Sài Gòn năm 1959, và Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (BNVGPTTADL) do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm  1959. Ngoài hai tập tư liệu này còn có những tập tư liệu khác, ra đời hơn 30 năm sau.

Nhà nghiên cứu Pháp Georges Boudarel và công trình "Trăm Hoa Đua Nở Trong Đêm Việt Nam"
Trước hết là cuốn "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam" (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) của Georges Boudarel. Georges Boudarel, nay đã qua đời, là nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, 1947 sang Việt Nam với mục đích tranh đấu chống  chính quyền thuộc địa. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ "cải tạo" tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, vì không còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp. Trong thời gian ở Việt Nam, ông đã gặp gỡ nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có những thành viên NVGP và Boudarel đã mang được về Pháp những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, và một số báo xuất bản ở Hà Nội trong thời kỳ này.
Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh "cởi trói văn nghệ" của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Georges Boudarel đã viết loạt bài tựa đề Dissidences intellectuelles au Viêt-Nam L'affaire Nhan Van-Giai Pham (Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm), in trên hai tập san Sudestasie (số 50 tháng 1/1988) và Politique Aujourd'hui en Europe (phụ bản tháng giêng năm 1989), sau tập hợp và đào sâu thành cuốn "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam" (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) do  Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris.
 Ngoại trừ việc Boudarel (cũng như Hoàng Văn Chí) đều cho rằng phong trào NVGP bắt nguồn từ Trăm hoa đua nở bên Trung Quốc, là sai, và Lê Đạt, Hoàng Cầm đã đính chính trong những buổi trả lời phỏng vấn trên RFI, cuốn sách của Georges Boudarel là tập tư liệu có giá trị bằng tiếng Pháp viết về NVGP, nhờ đó mà bi kịch NVGP đến được với người đọc tiếng Pháp.   
Từ những năm 90 trở đi, một loạt những tài liệu mới về NVGP xuất hiện rải rác trong và ngoài nước, dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác... của những thành viên đã tham gia phong trào như Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu Loan, Hoàng Cầm...
Trong số đó có hai tài liệu quan trọng là tập hồi ký viết bằng tiếng Pháp Un Excommunié (Kẻ bị khai trừ, nxb Quê Mẹ, Paris, 1992) của Nguyễn Mạnh Tường với tiểu tựa: Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel (Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức).
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể lại những thăng trầm trong cuộc đời ông gắn bó với lịch sử từ 10 giờ sáng ngày 10/10/1954 khi quân cách mạng tiến vào Hà Nội đến tháng 5/1991, thời điểm ông viết xong tập hồi ký. Sau 9 năm theo kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường từ chiến khu trở về trong số những trí thức được ưu đãi của chính quyền. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ra đời, ông tham gia và đã chịu sự trừng phạt nặng nề. Nhờ hồi ký Nguyễn Mạnh Tường mà chúng ta có thể hình dung được các giáo sư đại học cùng chí hướng với ông như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, đã phải trải qua những kỷ luật như thế nào, và hiểu được cuộc sống cách ly, đói khát, luôn luôn bị theo dõi của họ trong hơn ba mươi năm sa mạc.

Nhà thơ Trần Dần và trang bìa tạp nhật ký ông xuất bản năm 2001
Cuốn nhật ký Trần Dần ghi (Văn Nghệ, California, 2001), trích những ghi chép hàng ngày của Trần Dần, đặc biệt trong hai thời kỳ: Cải cách ruộng đất và sau Nhân Văn Giai Phẩm.
 Nếu hồi ký Nguyễn Mạnh Tường là bản chúc thư (viết năm 1991, ở tuổi 82) gửi gấm cho thế hệ mai sau về sự đối đầu của một trí thức trước áp lực cách mạng, thì nhật ký Trần Dần, ghi lại những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơ đã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ, muốn được trở lại sống bình thường như mọi người, nhưng vô hiệu.
Hoàng Văn Chí và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (THĐNTĐB), do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá xuất bản tại Sài Gòn, 1959, cho biết: "Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ", "Tôi làm việc một mình", "Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội", " Tôi làm việc trong hai năm 56-58". "Bộ Thông tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào". "Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay (1986) chưa được thả". "Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa" (Trích Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, bán nguyệt san Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ).

Hình bìa tập biên khảo "Trăm hoa đua nở trên đất Bắc" và chân dung tác giả Hoàng Văn Chí
(Nguồn : Wikipedia)
Hoàng Văn Chí đã nói rõ lý do và điều kiện ra đời của tập Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Nhưng tại sao ông lại đặc biệt lưu ý đến phong trào NVGP? Ai là những người "ở lại" mà ông đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ ? Nếu tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, có thể chúng ta thấy câu trả lời :
Sở Cuồng Lê Dư có ba người con gái - vì bà Lê Dư là em ruột Phan Khôi, cho nên ba cô này là cháu Phan Khôi - cô đầu gả cho Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì lấy Hoàng Văn Chí và cô út là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Riêng nữ sĩ Hằng Phương, vợ nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, sau này viết bài đả kích thậm tệ Nhân Văn Giai Phẩm. Rất có thể vì thế, mà người em ruột Hằng Phương, tức bà Hoàng Văn Chí, đã là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về Nhân Văn Giai Phẩm.
Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong trào NVGP. Trừ ba người : Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt bị loại ra (có thể Hoàng Văn Chí không thích hay không tin họ vì Nguyễn Hữu Đang đã từng là người tin cẩn của Hồ Chí Minh, Lê Đạt là bí thư của Trường Chinh và Trương Tửu là nhà phê bình lý luận Mác-Xít). Phần lớn những thành viên khác đều có mặt, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi và Văn Cao, với những chi tiết mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Một phần vì Hoàng Văn Chí có liên hệ gia đình với Phan Khôi, nên một số dữ kiện chỉ ông biết, mà không tìm thấy ở những tư liệu khác. Những chi tiết ấy có thể một số người ở trong nước biết nhưng không dám viết ra. Sau này, không thiếu những cuốn sách viết về Văn Cao, Phan Khôi, nhưng thường lại tô hồng, tiểu thuyết hoá, hoặc cắt xén vo tròn, khó tìm thấy sự thật.
Nhưng tác phẩm của Hoàng Văn Chí cũng có một số nhược điểm:
- Soạn giả không phải là người trong cuộc, và đã rời miền Bắc từ đầu năm 1955, cho nên khi thuật lại một số sự việc đôi khi có những chi tiết ông nhớ sai, những sai sót này, ngày nay, chúng ta có thể điều chỉnh lại được.
 - Hoàng Văn Chí là người chống Cộng và ông để lộ lập trường khá rõ trong tác phẩm có tính cách biên khảo này. Vì vậy, ông chỉ nhắc sơ qua, hoặc không nhắc đến những bài quan trọng của Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt (vì những lý do đã nêu trên).
- Ngoài ra, ông cũng cắt xén những đoạn mà các tác giả trong NVGP lên án "tội ác Mỹ Diệm", hoặc ca tụng Đảng. Đặc biệt với bài Nhất định thắng của Trần Dần, ông đã lược bỏ những câu, những đoạn sắt máu, có tính cách khẩu hiệu, tuyên truyền, khiến cho tác phẩm hay hơn, nhân bản hơn, được độc giả miền Nam chấp nhận, nhưng đã làm lệch ý của Trần Dần trong thời điểm 1955-56. Bản in lại trong tập Trần Dần thơ (nxb Đà Nẵng, 2008) cũng là bản Hoàng Văn Chí.
Ngày nay, chúng ta có thể phân tích rõ ràng tư tưởng của mỗi thành viên, qua các văn bản mà họ để lại trên các báo Nhân Văn và Giai Phẩm. Một mặt khác, qua nhân chứng của các thành viên, chúng ta có thể tái tạo lại diễn biến của phong trào: ai làm gì, ai giữ trọng trách gì. Đối chiếu những nhân chứng này với lời buộc tội của những ngòi bút chính thống được chỉ định đánh họ, in lại trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (1959) và một số bài in trên các báo chính thức trong thời kỳ này, mà Lại Nguyên Ân đã sưu tầm và công bố, chúng ta có thể nhìn ra nhiều khía cạnh của sự thật hơn.
Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận
Tập tài liệu tựa đề Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội NVGP. Trong phần cuối cuốn sách, có một chương nhỏ, trích "những lời thú tội" của các thành viên NVGP, còn hầu như toàn thể dành cho phía công tố "phát hiện tội", với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng, hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là "trí thức văn nghệ sĩ" đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP.
Tập tư liệu dày 370 trang này -chứng tích một thời mà chữ nghiã đã đạt tới đỉnh cao của sự bồi bút- còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà nhà thơ Lê Đạt đã mô tả tường tận trong các bài phỏng vấn trên RFI. Đồng thời nó cũng gián tiếp trả lời những lập luận gần đây, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc của phong trào NVGP thành một cuộc "đánh đấm nội bộ", tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng.
Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ và các đoàn thể, báo chí, nhân dân cũng như các vị trong ban chấp hành trung ương Đảng, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v... phản ảnh rất rõ nhân cách của người tố. Cho nên, có thể nói, qua những "văn bản tố", các tác giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng nhờ cách sắp xếp thứ tự "những tên đầu sỏ" mà chúng ta biết được thứ tự "tội" nặng, "tội" nhẹ, cùng hoạt động của mỗi người.
Những buổi phỏng vấn trên RFI
Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đề nghị ghi âm ông, mong ông soi tỏ những chỗ chưa được các tài liệu trước đề cập đến, hoặc viết sai. Buổi nói chuyện - thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử - tuy mang tính cách cá nhân nhưng có hệ thống về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đề nghị nhà thơ nói thẳng, nói thật hết và cam kết là sẽ chỉ công bố tài liệu sau khi ông qua đời, bởi lúc đó được biết, ông không định viết hồi ký.

Ngày 13/4/1999 tại Paris, nhà thơ Lê Đạt đã nói chuyện với RFI về Nhân Văn Giai Phẩm
Đầu năm 2004, sau khi thực hiện chương trình phát thanh kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ (1954-2004) với nhà văn Hữu Mai trên đài RFI, chúng tôi dự định làm thêm một chương trình kỷ niệm 50 năm phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (nếu coi 1954 như thời điểm manh nha sự gặp gỡ giữa các văn nghệ sĩ chủ trương phong trào) nên đã cố gắng liên lạc với nhà thơ Lê Đạt qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, muốn làm một cuộc phỏng vấn ngắn gọn có tính cách thời sự, phù hợp với đề tài này, nhưng không thể thực hiện được, vì chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của nhà thơ Lê Đạt, chúng tôi quyết định cho phát trên sóng RFI, toàn bộ buổi nói chuyện với ông đã thu thanh ngày 13/4/1999 tại Paris. Do đó mà tài liệu văn học sử này đã đến với thính giả RFI sớm hơn dự tính.
Đây là lần đầu tiên, một tư liệu trực tiếp qua lời thuật của một thành viên cột trụ trong Nhân Văn Giai Phẩm được công bố.
Bên cạnh Lê Đạt, còn có tiếng nói của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là cuộc phỏng vấn ngắn nhà chính trị và văn hoá Nguyễn Hữu Đang: Nhân dịp kỷ niệm ngày 2/9/1945, chúng tôi nhờ Lê Đạt liên lạc với  Nguyễn Hữu Đang, để hỏi ông về việc tổ chức ngày lễ Độc Lập. Buổi nói chuyện này thu thanh qua điện thoại nhà Lê Đạt ngày 30/8/1995 và được phát thanh trên đài RFI ngày 10/9/1995. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chúng tôi có thể ghi âm được Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Những thính giả của RFI đã từng nghe những chương trình này, đều lưu ý thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, không đạt mức độ tự do như các cuộc  trò chuyện  trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng cả ba chứng nhân, cũng là ba người đầu tiên đã xây dựng nên phong trào Nhân Văn Giai Phẩm cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật. Có những câu hỏi cùng đặt cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, nhưng sự trả lời gần như tương tự.
Sau cùng là nhân chứng của Trần Duy. Hoạ sĩ Trần Duy đã liên lạc với chúng tôi từ nhiều năm qua, ông cho biết đã nghe những chương trình phát thanh trên đài RFI về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, có những điều ông muốn nói, dưới nhãn quan của riêng ông, nhưng cơ hội chưa thuận tiện. Tháng 6/2008, hoạ sĩ Trần Duy quyết định lên tiếng. Chúng tôi đã ghi âm ông qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, không bị trở ngại gì. Và như thế, chúng ta có thêm nhân chứng của Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn.
 Nếu trong những bài viết trên báo hoặc các chương trình phát thanh, từ 1988 đến ngày nay, còn có những thiếu sót, đôi khi sai lầm, thì, những chứng nhân quan trọng của Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, đã đính chính và bổ sung. Các ông thay mặt những người đã khuất viết lại lịch sử của phong trào và lần này, không ai có thể ngăn ngừa sự thật.
Tất nhiên, mỗi người có một sự thực của riêng mình, về mỗi dữ kiện, mỗi vấn đề. Thời gian trôi qua, ký ức cũng có đôi chỗ sai biệt, nhưng những sai biệt ấy, nếu có, thường là những chi tiết không mấy quan trọng. Độc giả sẽ rút ra từ những sự thực có thể khác nhau ấy, phần tổng kết riêng của mình, về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Những buổi phỏng vấn các thành viên chính của phong trào NVGP, phát thanh trên trên RFI, từ năm 1995 đến 2008: Nguyễn Hữu Đang (10/9/1995), Hoàng Cầm (21/2/1998 đến 10/1/2004, 4 kỳ), Lê Đạt (từ 24/3/2004 đến 5/6/2004, 7 kỳ) và Trần Duy (26/6/2008 đến 26/7/2008, 4kỳ), đã cung cấp cho chúng ta những tư liệu trực tiếp về NVGP, do những người trong cuộc nói ra.
Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt (ghi âm tại Paris ngày 13/4/1999, khi ông sang Pháp lần thứ nhì, và phát thanh từ tháng 3 đến tháng 6/ 2004 trên đài RFI), cho đến nay, là chứng từ quan trọng nhất và đầy đủ nhất về lịch sử phong trào NVGP. Lê Đạt mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội.      
Những năm gần đây trang báo điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài chủ biên, đã cho in lại và lưu trữ trên mạng Internet toàn bộ báo Nhân Văn Giai Phẩm.
Lại Nguyên Ân đang sưu tầm những bài viết trên các báo chính thức thập niên 60, liên quan đến phong trào NVGP và đưa dần lên Internet.
Những tư liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm về NVGP, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại toàn diện bối cảnh phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ trí thức, lớn lao nhất trong lịch sử văn học Việt Nam.
*
Từ tháng 4/1988, khi chúng tôi viết những dòng đầu về Nhân Văn Giai Phẩm đến nay đã hơn hai mươi năm.
Chuyên luận này tưởng như hoàn tất một chương trình tìm kiếm lâu dài, nhưng thực ra nó lại là khởi điểm cho một cuộc tìm kiếm mới về những gì đã thực sự xẩy ra.
Bởi càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ những khoảng trống chưa thể lấp được, những câu hỏi chưa được trả lời về biết bao nhiêu sự kiện lịch sử khác nhau, về những con người như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Phan Khôi, Thụy An, Trương Tửu... và còn bao nhiêu người khác nữa. Những gì chúng ta góp nhặt được về họ, ngoài những văn bản do chính họ đã viết ra, đôi khi lượm lặt được vài ba dòng nhật ký của người này, hồi ký của người kia, cũng chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại hồi ký đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu.
Cho nên người nghiên cứu phải vô cùng thận trọng khi tìmlựa thông tin, những gì là thật, là giả trong những tư liệu mà mình có được. Tìm tư liệu không khó trong thời buổi Internet này, nhưng sử dụng tư liệu để dựng lại sự thật là một việc khác hẳn. 
Làm sao biết được về hoạt động chính trị của Lê Đạt trước khi theo Việt Minh ? Lê Đạt đã từng theo Việt Nam Quốc Dân Đảng?  
Theo Văn Cao thì Phạm Duy là người đầu tiên đã dẫn ông liên lạc với Việt Minh, Phạm Duy cũng là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân ca, là người "cướp" micro trước cửa Nhà hát lớn ngày 17/8/1945 để hát bài Tiến Quân Ca lần đầu tiên trước công chúng. Khi in lại đoạn hồi ký của Văn Cao về bài Tiến quân ca, người ta đã cắt bỏ tất cả những chi tiết nói về Phạm Duy, có chỗ thay bằng Nguyễn Đình Thi. Một mặt khác, ngay chính bản thân Lê Đạt và Phạm Duy, vì an ninh của bản thân và của gia đình, các ông đã không thể nói tất cả sự thật, càng không thể viết ra trên văn bản.
Chúng ta biết gì về hoạt động của Thụy An ? Về "mối tình đầu" của Thụy An với Võ Nguyên Giáp ? Về những bí mật giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân Quốc Dân Đảng ? Tại sao Thụy An quay trở lại Bắc, trong khi gia đình bà di cư vào Nam ?
Những bí mật ấy, tuy chỉ là những chi tiết, nhưng ngày nay, những người muốn biết sự thật, phải có quyền được biết, đặc biệt là những nhà nghiên cứu về thời kỳ lịch sử này.  
Nếu biết được những chi tiết ấy, chúng ta sẽ thấy tất cả những hoạt động đảng phái thời kháng chiến chống Pháp không đơn giản như hai với hai là bốn: theo bên này là yêu nước, theo bên kia là bán nước. Mà bất cứ cá nhân nào dù là văn nghệ sĩ, trí thức hay hoạt động chính trị cũng có thể theo hai ba con đường khác nhau, trong suốt hành trình sống của mình.
Vấn đề của người nghiên cứu là phải tìm hiểu những đầu mối đan cài vô cùng phức tạp giữa các khuynh hướng chính trị, văn hoá khác nhau giữa những đảng phái như Việt Minh, Quốc Dân Đảng, Đệ Tứ, trong mối tương giao không xé ra được.
Những người đã từng tham gia các tổ chức khác nhau ấy, đã phải chối bỏ lẫn nhau hoặc không dám nói đến toàn bộ hành trình của họ, khi theo bên này, lúc ở bên kia, trên đường tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ.
Bi kịch của họ phản ánh bi kịch chung của toàn thể dân tộc. 
(Hết phần I)


Nhân Văn Giai Phẩm phần II : Nguyên nhân phát xuất
  Thụy Khuê
Bài đăng ngày 01/06/2009 Cập nhật lần cuối ngày  05/12/2009 13:56 TU

Trang bià báo Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Muà Xuân
(Ảnh : DR)
Mặc dù bắt nguồn từ quân đội, nhưng không tìm thấy văn bản nào của ba tướng lãnh Lê Quang Đạo, Trần Độ và Lê Liêm trong tổng cục chính trị lên án phong trào. Trong vụ thanh trừng Nhân Văn Giai Phẩm, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự. Nhân Văn Giai Phẩm mở đầu cho tinh thần đấu tranh cho tự do tư tưởng, cho công cuộc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi phong trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987- 88, với vai trò chủ đạo của Trần Độ.

Với những tư liệu và nhân chứng hiện hành, chúng ta có thể tóm tắt lịch trình hoạt động của phong trào NVGP, theo thứ tự ngày tháng, như sau :
Tháng 3/1955: Trong quân đội, Trần Dần, Tử Phác, với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt, chủ trương việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Tháng 4/1955: Nhóm Trần Dần, Tử Phác ký "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", chủ yếu đòi quyền tự do sáng tác. Bác bỏ chế độ chính trị viên trong văn nghệ quân đội.
Từ 13/6/55 đến 14/9/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt, bị phạt cấm trại trong trại 3 tháng vì lý do phạm quân kỷ, sau đó được đưa đi cải tạo ở Yên Viên (tham gia Cải cách ruộng đất đợt 5).
Tháng1/1956: Giai phẩm mùa xuân ra đời do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương (có bàn  với Trần Dần) với những bài chính: Nhất định thắng của Trần Dần, Anh có nghe thấy không của Văn Cao, Làm thơMới của Lê Đạt, ...
Tháng 2/56 (Tết Nguyên đán): Lê Đạt bị gọi lên Tuyên huấn để kiểm thảo. Trần Dần, Tử Phác bị bắt lần thứ nhì. Giai phẩm mùa thu bị tịch thu. Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ. Chiến dịch đánh Trần Dần bắt đầu với bài của Hoài Thanh "Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần" trên báo Văn Nghệ số 110, ra ngày 7/3/56.
Ngày 24/2/1956: Khrouchtchev tường trình tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên xô. Ngày 26/5/1956: Mao Trạch Đông phát động phong trào "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng". Ngày 28/6/1956: Ba Lan nổi dậy.
Theo chính sách của Liên Xô và Trung Quốc, đảng Lao Động nới rộng tự do:
Tháng 8/56: Hội Văn Nghệ được chỉ định tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày.
Ngày 26/8/1956: Nguyễn Hữu Đang đọc tham luận tổng kết lớp học 18 ngày của Hội Văn Nghệ, chỉ trích gắt gao đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung ương đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bộ phận lãnh đạo văn nghệ phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa". Hoài Thanh viết bài nhận lỗi đánh Trần Dần.
Ngày 29/8/56: Giai phẩm mùa thu, tập I ra đời, với những bài chủ chốt: Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính, Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy,...
Ngày 20 /9/1956: Nhân văn số 1, với bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm và tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ, bài Chống bè phái trong văn nghệ của Lê Đạt (ký tên Trần Công),...

Tờ Nhân Văn số 1 và bài phỏng vấn luật sư Nguyễn Mạnh Tường về dân chủ
(Ảnh : DR)
Ngày 30/9/1956: Nhân văn số 2, với bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do và dân chủ, bài Trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân dân của Nguyễn Hữu Đang (ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy), bài Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy...
Ngày 30/9/56: Giai phẩm mùa thu, tập II, với bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông bình vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán,...
Ngày 8/10/1956: Giai phẩm mùa xuân tái bản.
Ngày 15/10/56: Nhân văn số 3, Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng tạ thế 13/10/1939, và các bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo, Phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về mở rộng tự do và dân chủ,...
Ngày 30/10/56: Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn "Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo" tại Mặt Trận Tổ Quốc, Hà nội.
Ngày 30/10/1956: Giai phẩm mùa thu, tập III, với bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh,...
Ngày 5/11/56: Nhân văn số 4, với bài Cần phải chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu Đang, Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa của Người Quan Sát, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuân của Văn Cao,...
Ngày 10/11/56: Đất mới, báo sinh viên, với bài Phê bình lãnh đạo sinh viên của Q. Ngọc và T. Hồng, Lịch sử một câu chuyện tình của Bùi Quang Đoài,...
Ngày 20/11/56: Nhân văn số 5, với bài Hiến pháp Việt nam năm 1946 và hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, Bài học Ba lan và Hung-ga-ri của Lê Đạt (ký tên Người Quan Sát),...
Tháng 12/56: Giai phẩm mùa đông, tập I, với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo,...
Ngày 09/12/1956: Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí.
Ngày 15/12/56: Nhân văn số 6 đang in, bị đình chỉ.
Cuối tháng 12/56: Tự Do diễn đàn, tập một, tạp chí chuyên về Lý luận, Phê bình, Sáng tác, do Minh Đức phát hành cuối tháng 12, bị cấm.
Tự do diễn đàn gồm có các bài: Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường; truyện ngắn Chú bé làm văn của Trần Dần; Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết đến cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang; Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc; Động Long Mạch của Lê Đạt; Vài ý nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm; Sinh hoạt văn hoá của Trương Tửu - Trần Đức Thảo [theo tư liệu của Boudarel, trong bài Le tort de parler trop tot (Sai lầm vì nói quá sớm) viết về Nguyễn Mạnh Tường, Revue Sud Est Asie, số 52].
Từ 20 đến 28/2/57: Đại hội văn nghệ II họp tại Hà Nội. Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát bọn NVGP".
Cuối năm 57: Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Huy Cận và Hà Xuân Trường  được cử đi học tập chính sách của Trung Quốc.
Tháng 2 và 3/58: Khi họ trở về, đảng thi hành chính sách "triệt hạ nọc độc Nhân Văn",  tổ chức hai lớp đấu tranh ở Thái Hà ấp.
Ngày 4/6/58: "Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" kết thúc bằng Đại hội văn nghệ III, tại Hà nội với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án "bọn NVGP", và các hội văn nghệ thi hành các biện pháp kỷ luật. 
Chớm nở từ đòi hỏi quyền tự do sáng tác
Nhìn lại lịch trình trên đây, chúng ta thấy ngay sự xác định trước đây của Hoàng Văn Chí trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc và của Boudarel trong Trăm hoa đua nở trong đêm Việt nam (THDNTĐVN) về nguyên nhân phát xuất Nhân văn giai phẩm từ Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc là sai, vì phong trào ở Việt nam, chớm nở từ việc đòi hỏi tự do sáng tác (tháng 4/55) trong quân đội, và chính thức bắt đầu với Giai phẩm mùa xuân (tháng 1/56), trong khi  đến tháng 5/56 Mao Trạch Đông mới phát động phong trào Trăm hoa đua nở.
Nhưng nhờ Đảng Lao Động học tập chính sách của Mao Trạch Đông và Liên Xô, mới có việc nới rộng tự do văn nghệ ở Việt nam, mới tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, và Nguyễn Hữu Đang mới có cơ hội trở lại văn trường và chính trường, giữ vai trò lãnh đạo phong trào NVGP.
Tác phẩm của Boudarel đặt trọng tâm vào Trần Dần và bi kịch Trần Dần, theo ông Trần Dần chịu ảnh hưởng tư tương phản kháng của Hồ Phong trong chuyến đi Trung Hoa tháng 7 năm 1954 (để viết bản dẩn giải cho phim Điện Biên Phủ). Thậm chí Boudarel còn cho rằng hai chữ Nhân Văn lấy từ câu một của Hồ Phong: "Hiện thực xã hội theo quan niệm của tôi  phải quay về với  con người... về sự giải phóng con người... về tinh thần nhân văn" (THĐNTĐVN, Boudarel, trang 59). Trong nhận xét này, ông đã lầm trên một số điểm:
- Tờ Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang chủ trương, khi ấy Trần Dần đã mệt mỏi, lui vào mặt sau vì chuyện tù tội, vợ con, gia đình.
- Tên Nhân Văn là do Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm đặt ra. Lê Đạt nói: "Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào". Và Hoàng Cầm, trong lần phỏng vấn năm 2007, nhận rằng ông đã nghĩ ra tên Nhân Văn; nhưng trong lời "thú nhận", năm 1958, Hoàng Cầm viết: "Một lần nữa, có Nguyễn Bính, Đang, Tước [bác sĩ Trần Hữu Tước?], bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là "tên báo gì gì cũng được" miễn là có báo ra được". (Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58)
- Dù Trần Dần "thú nhận" rằng sự chống đối của mình "có màu sắc tư tưởng Hồ Phong", cũng chỉ là một lối nói, bởi những thành viên chính của phong trào NVGP hầu hết đều chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp, không mấy người biết Hán văn để đọc Hồ Phong.
Tóm lại về nguyên nhân phát xuất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, với những tư liệu hiện hành, chúng ta có thể xác định: mọi sự bắt nguồn từ quân đội, những người đầu xướng là Trần Dần, Tử Phác, với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt trong hai vụ việc: Phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và Bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá".
Vụ phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Gần một năm sau hiệp định Genève, ở miền Bắc, trong quân đội, nổi lên phong trào đòi  đổi mới văn học tranh đấu cho tự do sáng tác do Trần Dần, Tử Phác chủ trương với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt và một số văn nghệ sĩ. Sự phản kháng chia làm hai đợt:
- Tháng 3/1955, Trần Dần, Tử Phác cộng tác với Hoàng Cầm, Lê Đạt, tổ chức việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, với những bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
- Tháng 4/1955 Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh và Trúc Lâm ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá".
Hai sự kiện này đi đôi và gắn bó với nhau. Trước kháng chiến, Trần Dần đã cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch (em Vũ Hoàng Chương) ra tạp chí Dạ đài (16/11/1946), với bản tuyên ngôn tượng trưng. Trong kháng chiến, năm 1950 Trần Dần gặp Lê Đạt, cùng chí hướng đổi mới thi ca. Bước đầu của sự đổi mới là phải "chôn đàn anh" (như lời Nguyên Sa, và hành động của nhóm Sáng Tạo, trong Nam, công kích Nhất Linh và Tự Lực văn đoàn). Trong đám "đàn anh" này, ở ngoài Bắc, Tố Hữu là khuôn mặt tiêu biểu.
Nhân dịp tập thơ Việt Bắc vừa phát hành tháng 12/54, đã có bài ca tụng của Xuân Trường trên báo Nhân Dân (24/1/55) và một bài tràng giang đại hải tung hô hết mình của Xuân Diệu trên hai số Văn Nghệ 64 và 65 (tháng 2/55). [In lại trong "Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc", do Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, nxb Văn Hoá thông tin, 2005]
Ngày 4/3/55, Trần Dần và Tử Phác bèn đứng ra tổ chức một buổi phê bình (kiểu toạ đàm) thơ Tố Hữu trong khôn khổ văn nghệ quân đội, với sự hiện diện của tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị. Lê Đạt, kể lại không khí hôm ấy như sau:
"Lúc đến, tôi đã thấy ông Nguyễn Chí Thanh ngồi đấy rồi. Hoàng Yến lên nói về thơ Tố Hữu và bảo rằng thơ Tố Hữu bây giờ "nhỏ" hơn thơ Tố Hữu thời trước, thì đó cũng là một cách nói thôi. Sau đó, khi anh Thanh lên diễn đàn thì tôi thấy không khí im lặng cả, không ai nói gì nữa. Trần Dần đá chân tôi bảo: "Thôi, thế cậu lên đi." Tôi lên nói một bài về thơ Tố Hữu và tôi có nhắc đến sự sùng bái chủ tịch Hồ Chí Minh của Tố Hữu. Cuộc trao đổi ấy rất vui vẻ rồi ông Thanh cũng không nói gì nữa. Căn cứ trên cuộc thảo luận ấy thì anh em thấy là có thể có đủ bài để viết trên tạp chí Văn Nghệ mà lúc đó tôi là thường trực. Sau đó tôi có lên trình bày với anh Tố Hữu vế tờ báo Văn Nghệ".(phỏng vấn Lê Đạt, RFI).
Buổi toạ đàm, mới chỉ là nói miệng. Nhưng Lê Đạt muốn đưa lên tạp chí Văn Nghệ (Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt ở trong ban biên tập). Khi Lê Đạt lên gặp Tố Hữu (bàn về nội dung tờ báo), thì tình cờ Tố Hữu lại "gợi ý" Lê Đạt nên viết bài phê bình tập thơ Việt Bắc (chắc ông chờ đợi một sự phê bình tâng bốc của đàn em).
Lê Đạt, nhân đã có sẵn bài của Hoàng Yến trong túi, bèn tập hợp thêm một số bài khác, làm  số báo đặc biệt về tập Việt Bắc. Chắc Tố Hữu không ngờ vụ việc lại xẩy ra trái hẳn ý mình, và như lời Lê Đạt: "ở nước Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ".
Việc phê bình rộng ra và chuyển sang các báo khác, kéo dài nhiều tháng (xem tư liệu của Lại Nguyên Ân). Nhưng Tố Hữu cũng không vừa: hội văn nghệ tổ chức thêm hai buổi tọa đàm khác, có các vị chức sắc tham dự. Trong số những bài ca tụng Việt Bắc chủ chốt có bài của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông.
Phía chê có ba người: Hoàng Yến, Hoàng Cầm và Lê Đạt. Trần Độ trung dung: vừa khen, vừa chê.
Hoàng Yến muốn chê thơ Tố Hữu bịa nhưng lịch sự nói rằng Tố Hữu chưa nắm vững hiện thực: "Ta thấy thơ Tố Hữu ngày nay còn bé hơn thơ Tố Hữu trước kia. Bé vì Tố Hữu chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại để đốt cháy lòng người đọc. Bé vì chất sống chưa thật sâu sắc nên ý thơ nhiều đoạn còn giả tạo công thức" (Tư liệu Lại Nguyên Ân, trang 69).
Hoàng Cầm chê thơ Tố Hữu "thiếu chất sống thực tế", "nhạt nhẽo", "hời hợt", chỉ "lởn vởn ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn", "những câu văn đèm đẹp" "rủ rỉ một lát rồi thôi", "chỉ thấy những hình ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào", khi ca tụng lãnh đạo thì "đao to búa lớn", " bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên giống như một vại nước to, tràn đầy, pha loãng một màu sữa. Loãng quá",...
Lê Đạt, trong bài lý luận, cho rằng Tố Hữu "cố gắng đi tới công nông" nhưng trong thơ còn rơi rớt tính chất "ngậm ngùi, buồn buồn... nó là cơ sở điệu tâm hồn của Tố Hữu"... Lê Đạt tổng kết ý kiến của mình và các bạn trong câu: "Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ"' (theo tư liệu Lại Nguyên Ân).
Trần Dần không có bài trên báo, nhưng viết trong nhật ký "Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị quá công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì lại là lắp lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì" (Trần Dần ghi trang 143). Và trong buổi toạ đàm ngày 4/3/55, theo Vũ Tú Nam mách lại, Trần Dần gọi thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour" (tí ti căm thù, tí ti tình yêu) (Sự thực về con người Trần Dần, Vũ Tú Nam, QĐND tháng 4/58).
Tất nhiên Tố Hữu không thể nào "bỏ qua" vụ này.
Sang tháng sau, Trần Dần, Tử Phác lại tung ra một vụ mới, đó là bản dự thảo đề nghị một chính sách văn hoá trong quân đội.
Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá
Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh và Trúc Lâm ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", nội dung yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, đòi quyền tự do sáng tác.
Theo Hoàng Cầm: "Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị".
Nhưng : "Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại : “Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí !
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang". (Trích bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, Nhân Văn số 1).
Hoàng Cầm không nói rõ những người ủng hộ kia là ai, và người "thẩm quyền bác bỏ" kia là ai. Nhưng qua bài đánh Trần Dần của Vũ Tú Nam trên Văn Nghệ Quân Đội, chúng ta có thể tóm tắt tình hình như sau : Cuối năm 54, đầu 55, Phòng văn nghệ quân đội tổ chức một cuộc thảo luận về việc thay đổi chính sách văn nghệ với sự có mặt của tướng Nguyễn Chí Thanh. Trong buổi đó, Trần Dần đã nêu lên ba đòi hỏi chính, Vũ Tú Nam viết:   
"1- Trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.
2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc hội văn nghê, không qua cục tuyên huấn và tổng cục chính trị.
3- Bỏ mọi "chế độ quân sự hiện hành" trong văn nghệ quân đội...
Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ". (Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân đội, số 4, tháng 4/58).
Tuy vậy, Trần Dần vẫn được giao cho việc tổ chức hội nghị ngành văn toàn quân tháng 4/55. Lần này, Trần Dần trình bày bản dự thảo do chính tay mình viết tháng 2/55, dài 12 trang đánh máy. Theo vài câu trích dẫn của Vũ Tú Nam (để buộc tội quan điểm "xét lại" của Trần Dần) Trần Dần viết:
"Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm... tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết"
"... Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách"
Tổng hợp thông tin của Hoàng Cầm và Vũ Tú Nam, chúng ta thấy: tướng Nguyễn Chí Thanh vừa bật đèn xanh cho Trần Dần và các bạn đòi hỏi tự do sáng tác (viết sự thật) vừa dập tắt bản dự thảo đòi tự do sáng tác. Nhưng ngoài Nguyễn Chí Thanh, bản dự thảo còn được những ai ủng hộ, khiến nó sắp được thông qua, như lời Hoàng Cầm ?
Theo phân tích của Boudarel, thì bản dự thảo này được sự ủng hộ của ba tướng tá cao cấp trong Tổng cục chính trị : Lê Quang Đạo, Trần Độ, và nhất là Lê Liêm. Ông viết:
"Ở những buổi thảo luận nội bộ năm 1955 trong quân đội, có những cán bộ cao cấp ủng hộ nhóm văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền tự do sáng tác, nhưng không ai chỉ rõ tên họ ra, rất có thể bởi vì muốn tránh cho họ rơi vào hoàn cảnh khó xử trước những đồng nghiệp quyết liệt.  Duy có hai người, hai tướng chính uỷ Trần Độ và Lê Liêm là dễ nhận ra, nhưng cũng không chỉ có hai người đó.
Một văn bản chứng minh rằng vào mùa thu năm 1956, tướng Lê Quang Đạo cũng can thiệp khi vụ việc xẩy ra. Nhưng trong chiều hướng nào? Lúc đó ông là trưởng phòng tuyên huấn" (trích THĐNTĐVN, trang 101).
Boudarel phác họa chân dung Lê Quang Đạo, Lê Liêm và Trần Độ, ba tướng lãnh trong tổng cục chính trị ủng hộ những nhà văn trẻ, ông phân tích những khúc mắc trên con đường của họ, khi ủng hộ tự do sáng tác và mở rộng dân chủ, lúc phải lùi bước trở lại vị trí chính thống. Điều đặc biệt đáng chú ý là trong suốt thời kỳ NVGP, ông không tìm thấy văn bản nào của các tướng lãnh trong tổng cục chính trị lên án phong trào.

Trang bià tập sách phê phán phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
(Ảnh : DR)
Cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận tập hợp những bài viết của hơn 80 văn nghệ sĩ và trí thức "dân sự" tuyệt nhiên không có bài viết nào của quân đội, kể cả Nguyễn Chí Thanh, mặc dầu phong trào phát xuất từ quân đội.
Với mức tư liệu hiện có, chúng ta có thể hiểu rằng: Trong vụ thanh trừng  Nhân Văn Giai Phẩm, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự.
Tướng Lê Liêm, một trong những người có công lớn trong trận Điện Biên Phủ, hết sức ủng hộ văn nghệ sĩ, Lê Liêm không viết một dòng nào chống lại những người đòi tự do sáng tạo, một sự im lặng này đầy ý nghĩa. Năm 1958, ông trở thành Thứ trưởng Văn hoá, tuy được thăng chức, nhưng không có quyền, bước đầu của sự thất sủng. Phản đối việc thân Tàu, chống Nga, năm 1965, ông nhận chức Thứ trưởng giáo dục, và trong một bài diễn văn về việc cải tạo giáo dục, năm 1968, ông trở lại quan điểm chính thống. Năm 1974, người ta đồn ông bị khai trừ khỏi đảng cùng với Ưng Văn Khiêm, tướng Nguyễn Văn Vinh và Bùi Công Trừng, vì tội thân Nga. Lê Liêm là một khuôn mặt cởi mở, chấp nhận đối thoại mà ít người biết đến.
Tướng Lê Quang Đạo, với trách nhiệm trưởng phòng tuyên huấn, chắc chắn đã tác dụng vào những cuộc tranh luận văn học nội bộ trong thời kỳ này. Sau vụ Nhân Văn, ông vẫn tiếp tục con đường cởi mở đến thập niên 80. Năm 1982, ở đại hội V, khuynh hướng bảo thủ thắng thế. Đến năm 1987, làm chủ tịch quốc hội, ông tiếp tục cổ động cho công cuộc đổi mới.
Trần Độ kiên trì trong quan điểm dân chủ hoá đất nước. Sau Nhân Văn, ông trở lại chiến trường. Dường như ông chỉ tạm thời lùi bước năm 1956 để tiến mạnh hơn, ba mươi năm sau. Năm 1982, trực diện với sự bảo thủ của Hà Xuân Trường trong đại hội V, Trần Độ thua cuộc, nhưng đến năm 1986, khi làm Trưởng ban văn hoá tư tưởng trung ương, dưới sự cởi mở của Nguyễn Văn Linh, Trần Độ trở lại vai trò chủ đạo cho công cuộc đổi mới văn học. Nói như Boudarel: "tất cả những vấn đề cơ bản đều quy về những năm 1955- 1956".
Như vậy NVGP, mở đầu cho tinh thần đấu tranh tự do tư tưởng, cho công cuộc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi phong trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987- 88.
Vai trò của tướng Nguyễn Chí Thanh khá phức tạp. Cầm đầu chính trị quân đội, ông cũng là người đã "dẹp" vụ dự thảo ngay còn trong trứng nước. Nhưng khi Trần Dần bị bắt lần thứ nhì, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện, Trần Dần viết thư cho Nguyễn Chí Thanh, ông đã can thiệp để "cứu" Trần Dần. Nhưng cũng chính tướng Nguyễn Chí Thanh đã trao cho người bà con Vũ Tú Nam toàn bộ tư liệu về Trần Dần, kể cả 2 lá thư Trần Dần viết để xin ra khỏi đảng năm 55, để họ Vũ có đủ tư liệu viết bài đánh Trần Dần (THĐNTĐVN, Boudarel, trang 100 và 126).
Nhưng cũng không thể liệt Nguyễn Chí Thanh vào loại người xoay chiều, như Đỗ Nhuận, bạn thân của Trần Dần, cùng đi Điện Biên Phủ, cùng đi Trung Quốc, cùng ký bản dự thảo, nhưng sau này quay lại viết bài đánh Trần Dần.
Nhân vật Trần Dần

Chân dung nhà thơ Trần Dần với vết sẹo trên cổ do họa sĩ Nguyễn Sáng vẽ năm 1956 và đăng trên Nhân Văn số 1.
(Nguồn : Tư liệu G.Boudarel)
Vì hai sự kiện: phê bình thơ Tố Hữuđề nghị cải cách chính sách văn nghệ quân đội, mà Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật, bị giam từ 13/6/55 đến 14/9/55.
Nhưng về mặt chính thức, Trần Dần bị kỷ luật vì lẽ khác: về chuyện tình cảm, yêu một người con gái có đạo (Cô Khuê, vợ Trần Dần sau này) cha mẹ đã đi Nam, không được đảng cho phép cưới, tự ý bỏ trại, về với người yêu ở phố Sinh Từ và không chịu lên trình diện (Tử Phác cũng không chịu lên trình diện). Hoàng Văn Chí thu thập được khá nhiều tin tức và tổng hợp với bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, đã viết khá chi tiết về việc này từ năm 1959. Nhưng sự phân tích của Boudarel có những điểm thỏa đáng hơn:
"Đối với Trần Dần, trận bút chiến trong ba tháng đầu năm 1955 đi đôi với sự tranh đấu không cân bằng trong cục chính ủy quân đội về vấn đề lý thuyết chính trị và nhân sự, cả hai đan cài khó gỡ. Việc bản dự thảo bị hủy bỏ đối với Trần Dần là một thất bại, nhưng cũng không đau đớn bằng việc bị các bạn đồng hành bỏ rơi chạy sang phe bên kia. Vì lý do sức khỏe, Trần Dần xin nghỉ một thời gian để thoát khỏi trại nhà binh. Mãi không thấy cấp trên trả lời, anh tự ý bỏ trại về nhà người bạn gái ở phố Sinh Từ. Hai lần cấp trên gọi về chờ lệnh, anh đều từ chối. Bị kiểm thảo vắng mặt, và có lẽ bị trừng phạt nữa, bởi vì trong lần gọi thứ ba, anh đòi hủy bỏ những quyết định chống lại anh. Những phê phán Trần Dần phạm quân kỷ đi đôi với việc trật tự trở lại trong văn nghệ quân đội. Mãi không thấy gì mới, đến giữa tháng 5/1955, Trần Dần viết hai lá đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân đội (một cho đảng và một cho quân đội) trong đó anh trình bày những lý lẽ của mình với một sự thẳng thắn, nếu không muốn nói ngây thơ lạ lùng" (THĐNTĐVN, Boudarel, trang 125-126).
Đây là lần thứ nhất Trần Dần, Tử Phác bị giam, thật ra là bị cấm trại, không phải bị tù. Trong thời gian này, Trần Dần viết bài thơ dài Nhất định thắng trao bản thảo cho Lê Đạt giữ (Hoàng Cầm, Con người Trần Dần). Hết ba tháng cấm trại, Trần Dần và Tử Phác được về nhà, và hơn tháng sau, cả hai được gửi đi tham gia Cải cách ruộng đất tại Yên viên, Bắc ninh, từ 2/11/1955 đến tháng 2/1956. Trong khi ấy Hoàng Cầm và Lê Đạt chuẩn bị ra tờ Giai phẩm mùa xuân.
Tháng giêng năm 1956, Giai phẩm mùa xuân ra đời, đăng bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần. Bài thơ đã gây tai họa cho Trần Dần và tờ giai phẩm. Báo vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi lên Tuyên huấn để kiểm thảo. Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu. Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Bị giam, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện. Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh ngày 21/2/56 và được tha ngày 5/5/56 (THĐNTĐVN, Boudarel, trang 46).
Hoàng Cầm viết: "Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù :
Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam".
"Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội."  (Con người Trần Dần, Hoàng Cầm, Nhân Văn số 1)
Hoàng Cầm trong lời "thú nhận", kể rằng ông muốn làm "cho cả cụ Hồ, cả Trung ương cũng phải thương xót cảnh ngộ Trần Dần, mà trừng trị người nào đã gây ra cảnh ngộ đó". Nhưng sau khi bài báo xuất hiện, Nguyễn Chí Thanh giao cho Lê Quang Đạo mời Hoàng Cầm đến để giải thích, vẫn theo lời "thú nhận" của Hoàng Cầm :
"Khi đồng chí Lê Quang Đạo có mời tôi vào giải thích rõ trường hợp Trần Dần, tôi đã nhụt đi, có ý muốn cải chính bài báo, tôi về viết bài cải chính, có nói rõ sự giáo dục của quân đội với Trần Dần, sự săn sóc của đồng chí Nguyễn Chí Thanh và của Phòng văn nghệ quân đội đối với Trần Dần, nhưng trong ý nghĩ vẫn không chịu nhận rằng mình đã xuyên tạc bóp méo sự thật, không chịu nhận rằng mình bôi đen chế độ, nên vẫn viết thêm một đoạn cuối nói rằng: việc bỏ tù Trần Dần là quá đáng, đến nỗi Trần Dần phải tự tử, và tôi vẫn viết một câu đại ý:  Đồng chí Tố Hữu là người  phụ trách toàn bộ công tác lãnh đạo văn nghệ, phải chịu trách nhiệm về viêc này. Thế là cải chính một nửa, để lại bôi xấu một nửa.- Bài đó (không đăng) chỉ là một hành vi không thành thật" (Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58).
Về phía đối diện, đây là lời buộc tội của Tố Hữu :
"Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hòa bình vừa lập lại.
Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường Đại học, thì bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong phòng Văn nghệ quân đội, đã kết thành một bè phái chống Đảng trong Văn nghệ.
Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.
Đương nhiên cái "điệu tâm hồn" ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với "tiếng sáo tiền kiếp" lóc gân của tên mật thám Trần Duy.
Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác -những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ- nay lại trở về với "cảnh cũ người xưa" bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội "nghẹt thở", chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên "tiếng trống tương lai" chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ròi", "người ụ". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ.
Họ đòi thực hiện những gì ? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên huấn và Tổng cục Chính trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ"
(Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm", BNVGPTTADL, nxb Sự Thật, Hà nội 1959, trang 22-24).
Việc Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ
Về việc Trần Dần cứa cổ, cho đến nay, chỉ có Hoàng Cầm kể lại: Trong bài cải chính (không in) mà Hoàng Cầm nhắc đến ở trên và trong buổi nói chuyện trên RFI, ông thuật lại ít nhiều chi tiết. Đặc biệt trong hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn ghi lời kể của Hoàng Cầm về việc này có nhiều chi tiết rõ ràng hơn :
Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần :
Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai phẩm mùa xuân, có đăng bài của Trần Dần, Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác (phụ trách tổ chức Bộ Văn Hoá), Chế Lan Viên... Tố Hữu cầm cuốn Giai phẩm mùa xuân, hỏi mọi người: "Các anh thấy tập sách này thế nào?"
Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu. Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói: " Cuốn sách đại phản động!"
Tố Hữu hỏi Văn Phác:"Hiện nay chúng nó đang ở đâu?" Văn Phác: "Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên viên"
Tố Hữu lệnh - Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, bắt lấy nó!"
Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác.
Và đây là lời kể của Trần Dần, Hoàng Cầm thuật lại: Chiều hôm ấy, có một cái xe ô tô nhà binh đến Yên viên. Họ gọi Trần Dần, Tử Phác ra và lập tức bịt mắt. Trần Dần kịp thấy trên xe có lính mang súng, lưỡi lê tuốt trần.
Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta bình tĩnh lắng nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà nội. Nhưng xe lại chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà nội. Đến một chỗ nào đấy, xe đỗ lại. Người ta dắt Trần Dần, Tử Phác, đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất - vì cứ thấy xuống nhiều bậc, xuống mãi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và đẩy Trần Dần vào một căn hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ tiêu. Thủ tiêu ở đây thì ai biết được? Coi như mất tích. Anh nghĩ phải tìm cách lên được mặt đất.
Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. Ánh sáng lọt xuống từ nóc hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh lính gác.
Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một bình nước. Anh kéo cái phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi áo sơ mi trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa lên phản, dùng lưỡi dao cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm ĩ, cốt cho anh lính gác nghe thấy. Anh lính gác nhìn xuống thấy thế hoảng quá: Nó tự tử, phải đưa cấp cứu ngay! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện gần đó. Té ra là bệnh viện Hà đông. Ở đây, Trần Dần may vớ được một người quen bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến Tổng cục chính trị nơi anh công tác. Nguyễn Chí Thanh lập tức đến bệnh viện và lệnh tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.
Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng Cầm cũng từng bị bắt giam. (Ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh Bắc sang Pháp in). Ông nói: "Tôi nhát lắm, mọi tội tôi xin nhận hết" (Hết hạn tù, người ta cho ra, còn xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất là trong tù cứ thấy tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu : Khai thật đi ! Khai thật đi ! Khai thật rồi về với vợ con !
Chuyện nghe khá sợ. Một hình thức khủng bố về tâm lý. Chẳng biết Hoàng Cầm có thêm thắt gì vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng Cầm cũng hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa" (trích Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh, chưa in).
Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu, Trần Dần, Tử Phác bị bắt, Lê Đạt bị kiểm thảo. Sự khủng bố trở nên công khai nhưng cũng mở màn cho một phong trào đấu tranh cho dân chủ rộng lớn hơn, nửa năm sau. Vậy nội dung Giai phẩm mùa xuân có những gì ? Điều này cần đến một sự phân tích văn bản cặn kẽ. 
(Hết phần thứ nhì)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét